Điều trị bệnh võng mạc ở trẻ sinh non (ROP)
Bệnh võng mạc ở trẻ sinh non là một bệnh lý liên quan tới sự phát triển không bình thường của các mạch máu ở mắt, có thể ảnh hưởng tới thị lực của bé. Trong hầu hết những trường hợp nặng, ROP có thể gây ra bong khu trú hoặc bong toàn bộ võng mạc. Việc điều trị bệnh ROP phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh và vùng võng mạc bị tổn thương trong mắt.
Bệnh được cho là nguy hiểm nên tất cả trẻ sinh non phải được theo dõi bệnh ROP cho tới khi thấy các mạch máu phát triển bình thường đến vùng chu biên của võng mạc. Nếu phát hiện ra bất kỳ dấu hiệu nào của bệnh ROP, thì việc kiểm tra võng mạc phải được diễn ra thường xuyên theo định kỳ. Trong một số ít trường hợp, khi sự phát triển của các mạch máu bình thường bị ngăn cản bởi sự phát triển của những mạch máu không bình thường, thì bắt buộc chúng ta phải điều trị.
Điều trị ROP bằng phẫu thuật
![]() |
Có rất nhiều phương pháp chữa ROP hiện nay. Ảnh: Corbis |
Các phương pháp điều trị ROP gồm có phẫu thuật bằng laser, hoặc đôi khi bằng lạnh đông. Mục đích của các biện pháp phẫu thuật này thì giống nhau, đó là ngăn chăn sự phát triển của các mạch máu bất thường. Biện pháp dùng laser quang đông được tiến hành bằng cách dùng tia laser để đốt (làm tổn thương) các phần của võng mạc, nơi chưa có các mạch máu phát triển. Biện pháp này giúp hạn chế sự phát triển các mạch máu bất thường trên những vùng võng mạc đó. Phương pháp lạnh đông là dùng nhiệt độ thấp để làm điều tương tự, nhằm đạt được cùng mục đích làm cho các mạch máu trên võng mạc phát triển bình thường.
Đôi khi quá trình phát triển của bệnh vẫn tiếp diễn mặc dù đã điều trị bằng laser hoặc làm lạnh đông. Trong những trường hợp này thì võng mạc sẽ có thể bị bong khu trú hoặc bong toàn bộ cần phải làm phẫu thuật. Bong võng mạc nặng hay nhẹ sẽ là một yếu tố quyết định thị lực về sau. Mặc dù phẫu thuật đôi khi thành công trong việc áp dính võng mạc nhưng hầu hết các bệnh nhân sẽ bị giảm sút về thị lưc. Những bé có võng mạc bị tách rời hoàn toàn sẽ bị mù hoặc gần như mù ở mắt bị bệnh. Trong nhiều trường hợp nhiều bé có võng mạc mắt bị bong khu trú sẽ vẫn nhìn thấy mặc dù không hoàn hảo.
Có rất nhiều cách và mức độ để điều trị mà bé sinh thiếu tháng có thể được áp dụng. Phương pháp điều trị và số lần điều trị cần thiết cho một trẻ sơ sinh phụ thuộc và tình trạng của em bé đó. Hầu hết tất cả trẻ sinh non đều chỉ nhẹ cân, nên việc điều trị thì không cần thiết. Tuy nhiên, bé càng sinh sớm thì bé càng cần phải nhận được những cách can thiệp thích hợp do tình trạng sức khỏe của bé.
Tái tạo lại môi trường của dạ con
![]() |
NICU tạo ra một môi trường rất giống như môi trường tại dạ con. Ảnh: Corbis |
NICU (phòng chăm sóc đặc biệt dành cho trẻ sơ sinh) có thể được xem như là một phương pháp trị bệnh vì nó tạo ra một môi trường rất giống như môi trường tại dạ con. Phòng NICU là để bé quen với môi trường nhân tạo, để tiện cho việc theo dõi tình trạng của bé và đảm bảo đủ khoảng thời gian cho bé phát triển bằng với thời gian bé ở trong bụng mẹ.
Cũng giống như dạ con, NICU cũng tối, yên tĩnh, và ấm áp, và bé được bảo vệ khỏi những va chạm và nguy cơ nhiễm trùng. Phụ thuộc vào mức độ sinh non của trẻ mà mỗi bé cần một chế độ hỗ trợ khác nhau, đặc biệt là các vấn đề hô hấp và tim mạch. Các bé sơ sinh cũng cần được cung cấp các nhu cầu về sinh hóa của cơ thể mình ở nhiều cách. Thường thì đây cũng là cách để bảo đảm sự cân bằng dịch và điện giải mà cơ thể của một bé sinh non chưa thể tự điều chỉnh.
Tất cả những phương pháp này có thể áp dụng ngay cả khi cơ thể bé không có gì bất ổn. Bình thường, sự bất ổn duy nhất ở những bé sinh non đặc biệt là sinh non khoảng vài tuần là bé được nuôi không đúng chỗ và bé vẫn cần có thời gian để phát triển và thích nghi với thế giới bên ngoài.
Sự kết hợp giữa các cách điều trị có thể được coi như là một sự chăm sóc tuyệt đối đặc biêt. Sự chăm sóc này mang lại nhiều lợi ích hơn bất kỳ một phương pháp trị bệnh riêng lẻ nào. Nói chung, các cách điều trị trong môi trường NICU thường hiệu quả hơn.
Các bước điều kiện điều trị cụ thể dựa trên số liệu và tình trạng riêng của bé
Ngoài việc tạo ra được một môi trường kích thích trẻ sinh non phát triển bình thường, các bác sĩ còn các cách điều trị khác. Thông thường, việc điều trị phải tuân theo sự chẩn đoán. Tuy nhiên, nếu các bác sĩ cho rằng phải tiến hành ngay việc điều trị cho bé cần thiết hơn là ngồi chờ kết quả chẩn đoán thì cần bắt tay vào điều trị ngay dù chưa hoàn toàn xác định đầy đủ các yếu tố chẩn đoán. Ví dụ, khi có nghi ngờ nhiễm trùng, các bác sĩ sẽ không chờ nhiều giờ liền để cho phòng xét nghiệm có kết luận về thuốc nhiễm trùng và kháng sinh, việc điều trị cho bệnh nhiễm trùng sẽ được tiến hành ngay sau đó.
Quan niệm về “nguy cơ” khi so sánh với “lợi ích” phải được áp dụng cho mọi phương pháp điều trị. Mặc dù tỉ lệ rủi ro có thể nhỏ, nhưng mọi cách điều trị đều tiềm ẩn một số rủi ro. Tuy nhiên các cha mẹ có con sinh non cần phải nghĩ rằng Trị bệnh vẫn tốt hơn là ngồi sợ rủi ro và chẳng làm gì cả.
Khi một em bé sinh non có một vấn đề nào đó thì các bác sĩ sẽ tìm ra cách điều trị thích hợp cho bé nhờ vào nghiên cứu. Sau đó các bác sĩ sẽ lên phác đồ điều trị cho một bệnh lý cụ thể nào đó. Nhưng sẽ có một hạn chế: Đó là những phương pháp điều trị dù được áp dụng cho phần lớn các bệnh nhân, thậm chí hầu như tất cả các bệnh nhân vẫn có thể không có hiệu quả với một trường hợp cụ thể nào đó. Thật khó để bác sĩ có thể biết trước được là một em bé đặc biệt nào đó sẽ đáp ứng lại với một cách điều trị nào thích hợp và phương án điều trị đó sẽ có hiệu quả như thế nào.
Khi việc điều trị không có tác dụng
Mục đích của việc điều trị là cải thiện tình trạng của bé. Nếu một em bé sinh non bị nhiễm trùng, thì mục tiêu của việc điều trị, kháng sinh, chính là đấu tranh với sự viêm nhiễm.
Đôi khi, đối với một số bé sinh quá non, việc điều trị có thể không mang lại kết quả, và khả năng áp dụng thành công các biện pháp trị bệnh khác cũng là rất ít. Trong những trường hợp này, thường cha mẹ có thể muốn tiếp tục điều trị cho bé bằng mọi cách, họ có cảm giác là phải làm một cách gì đó mà không biết việc đó có thể khiến bé có khả năng gặp những nguy cơ khác hoặc không tốt cho bé về sau.
Phải nhớ rằng bản chất của việc điều trị không phải là một mục tiêu. Hơn nữa nó chỉ là một phương pháp để cố đạt được mục đích chính: cải thiện tình trạng của bé sinh non. Nguyện vọng tiếp tục điều trị cho trẻ sinh non dù cho khả năng thất bại là rất lớn là hoàn toàn có thể thong cảm được. Cha mẹ muốn có cảm giác rằng họ đã làm mọi thứ họ có thể. Họ cho rằng họ không thể sống với mặc cảm tội lỗi là họ đã chẳng làm được gì. Tuy nhiên, đây không phải là một cách làm dựa trên lý trí trong hoàn cảnh khó khăn. Việc quyết định phương pháp điều trị phải dựa trên lợi ích của trẻ và trong một vài trường hợp thì việc không tiếp tục điều trị nữa cũng phải dựa trên lợi ích của bé sinh non.