Ngăn ngừa lây siêu vi B cho trẻ
Nếu người mẹ bị nhiễm virus viêm gan siêu vi B thì nguy cơ truyền bệnh cho con có thể lên đến 90% nếu không có biện pháp phòng ngừa ngay sau khi sinh.
Trường hợp nào trẻ bị lây nhiễm siêu vi B?
Tại Việt Nam, tỉ lệ người dân bị nhiễm viêm gan siêu vi B chiếm khoảng từ 15-20%, trong đó ở phụ nữ mang thai chiếm khoảng 10-13%.
Nếu phụ nữ bị nhiễm siêu vi B mang thai, sự lây truyền bệnh từ mẹ sang thai nhi phụ thuộc vào tải lượng virus trong máu (trực tiếp) hay sự hiện diện các marker huyết thanh (gián tiếp) của mẹ.
– Mẹ có HBsAg (+) và HBeAg (+), tỉ lệ truyền bệnh 90-100%.
– Mẹ có HBsAg (+) và HBeAg (-), tỉ lệ truyền bệnh 20%.
(HBeAg (+) là dấu hiệu siêu vi B sinh sản theo phương cách nhân đôi trong tế bào gan).
Theo một số nghiên cứu nước ngoài, có đến 90% trẻ sơ sinh bị nhiễm viêm gan siêu vi B sẽ có nguy cơ chuyển sang viêm gan mạn tính (sự tồn tại của HBsAg trong máu hơn 6 tháng) và bị xơ gan lúc trưởng thành.
Tỉ lệ trẻ bị viêm gan B cấp ngay sau khi sinh là 5-7%. Cơ chế lây bệnh lúc sinh và sau sinh chưa rõ ràng (có thể qua nhau lúc chuyển dạ), vì thế can thiệp bằng phẫu thuật để đưa trẻ ra cũng không ngăn chặn được sự lây truyền bệnh. Sự truyền bệnh trong tử cung là trường hợp ngoại lệ.
Việc nhiễm viêm gan siêu vi B ở mẹ có thể xảy ra trước khi có thai hoặc đang mang thai (trường hợp này ít gặp).
Việc mang thai không làm cho bệnh viêm gan siêu vi B ở mẹ nặng lên, siêu vi B cũng không gây ảnh hưởng xấu đến tiến trình mang thai cũng như cho bào thai (việc mang thai tiến triển bình thường, thai nhi phát triển tốt và không có nguy cơ bị dị dạng thai nhi). Chỉ trong trường hợp người mẹ bị viêm gan siêu vi B nặng ở quý III của thai kỳ thì mới có nguy cơ sinh non.
Người mẹ cần biết rằng nguy cơ truyền bệnh cho thai nhi có thể lên tới 90% nếu không có biện pháp bảo vệ ngay sau khi sinh.
Ngăn ngừa lây siêu vi B cho trẻ
Để ngăn chặn sự lây truyền bệnh từ mẹ sang con, nên có những phương pháp phòng ngừa thích hợp cho cả mẹ và trẻ sơ sinh.
Đối với người mẹ: Cần xét nghiệm viêm gan siêu vi B trước khi mang thai.
– Nếu mẹ không bị nhiễm và chưa có miễn dịch (HBsAg âm tính) thì nên tiêm phòng viêm gan siêu vi B. Xét nghiệm kiểm tra HBsAg vào tháng thứ 6 của thai kỳ.
– Nếu HBsAg (+) dương tính, để đánh giá mức độ truyền bệnh, có thể tiến hành xét nghiệm bổ sung HBeAg hoặc ADN và Anti-HBe. Còn nếu HBsAg (-) âm tính thì nên tiêm phòng cho mẹ vì vaccine này không chống chỉ định với phụ nữ có thai và cho con bú.
Đối với trẻ sơ sinh:
– Cần được tiêm huyết thanh đặc hiệu chống siêu vi B (Ig anti-HB) trong vòng 12 giờ sau sinh (nếu người mẹ bị viêm gan siêu vi B). Sau đó tiêm vaccine viêm gan B ở một vị trí khác trên cơ thể trẻ theo công thức 3 mũi (0, 1, 4 tháng tuổi). Sau 15 năm tiêm nhắc lại.
– Trẻ được bảo vệ bằng huyết thanh và vaccine vẫn cho bú mẹ bình thường vì sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất, có kháng thể giúp trẻ chống lại nhiều bệnh tật, đặc biệt là trong 6 tháng đầu đời.
Virus viêm gan B có khả năng tồn tại ở môi trường bên ngoài rất lâu. Chúng có thể sống trong vòng 15 năm khi nhiệt độ – 20 độ C; 6 tháng ở nhiệt độ trong nhà (20-30 độ C) và 7 ngày ở nhiệt độ 44 độ C.
Tính lây lan của viêm gan B rất cao. Do đó, các dụng cụ và đồ đạc bị vấy máu bệnh nhân dù đã khô nhưng vẫn có thể truyền bệnh trong một thời gian ngắn. Vì vậy, trong trường hợp này, cần lau rửa bằng thuốc sát trùng như Javel 10%. |
BS Lê Thanh Toàn
(Trung tâm Đào tạo Bác sĩ Gia đình – ĐH Y dược TP.HCM)