Bệnh viêm não nhật bản và cách phòng chống

Bệnh viêm não Nhật Bản (VNNB) là bệnh nhiễm vi rút cấp tính làm tổn thương hệ thần kinh trung ương, thường gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi.
Bệnh gây nên do vi rut VNNB, lây truyền qua muỗi đốt.

Tại sao lại gọi là bệnh viêm não Nhật Bản?

Bệnh được phát hiện lần đầu tiên tại Nhật Bản với biểu hiện viêm não – màng não tuỷ, nhiều người mắc, tử vong rất cao.

Năm 1935 các nhà khoa học Nhật Bản đã tìm ra căn nguyên bệnh là một loài vi rút từ đó đặt tên là vi rút VNNB.

Năm 1938 cũng các nhà khoa học Nhật Bản đã tìm ra vai trò truyền bệnh của loài muỗi Culex tritaeniorhynchus (Cu-lếc tri-tê-nio-rin-cút),
và sau đó vào tìm ra vai trò vật chủ và ổ chứa chính của vi rút VNNB là loài lợn và chim.

Bệnh VNNB có ở Việt Nam từ bao giờ và lưu hành như thế nào?

Ở Việt Nam, bệnh VNNB được ghi nhận đầu tiên vào năm 1952.

Năm 1959 dịch Viêm não mùa hè được xác định là do vi rút VNNB bằng chẩn đoán huyết thanh học tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Hà Nội.

Năm 1964, lần đầu tiên vi rút VNNB được phân lập tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Hà Nội, có ký hiệu HN-60.

Bệnh VNNB lưu hành trong cả nước, nhiều nhất ở các tỉnh đồng bằng và trung du miền Bắc. Các ổ dịch phần lớn tập trung ở những vùng trồng
lúa nước hoặc vùng bán sơn địa.
Bệnh VNNB lưu hành tản phát theo mùa, thường từ tháng 4 đến tháng 10 là mùa mưa ở Miền Bắc, đỉnh cao vào các tháng 6, 7. Hàng năm
có khoảng từ 2000 đến 3000 người mắc bệnh. Từ năm 1997 sau khi có vắc xin VNNB của chương trình Tiêm chủng mở rộng (TCMR) số
mắc và chết do bệnh VNNB có chiều hướng giảm đi.
Ngoài Nhật Bản và Việt Nam, còn những nước nào thường có VNNB?
Các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Philippin, vùng viễn đông Liên bang Nga hàng năm đều có bệnh
VNNB với số người mắc khá cao.
Hầu hết các nước này có nhiệt độ cao vào mùa hè và mưa nhiều thuận lợi cho việc trồng lúa nước. Chim di trú và tập quán chăn nuôi lợn theo
hộ gia đình còn phổ biến đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu hành virut VNNB trong tự nhiên, từ đó dẫn đến tình trạng lưu hành bệnh
VNNB ở người.

Vi rút VNNB có cấu tạo như thế nào?

Vi rút VNNB nằm trong nhóm các vi rút gây bệnh do côn trùng truyền, còn gọi là các vi rút Arbo (ác-bo).

Vi rút có dạng hình cầu, đường kính trung bình 40-50 na-nô-mét, lõi được cấu tạo bởi a-xít nhân (ARN) sợi đơn, là vật liệu di truyền của virut.

Hạt vi rút có vỏ bọc bên ngoài với bản chất là glyco-protein. Đó là kháng nguyên bề mặt có tính kết dính hồng cầu nên gọi là kháng nguyên
ngưng kết hồng cầu
, kháng nguyên này có hoạt tính kích thích sinh khánh thể trung hòa hạt vi rút.

Cấu tạo của vi rút viêm não Nhật Bản

ARN:Lõi di truyền của hạt vi rút E:Kháng nguyên ngưng kết hồng cầu

Virut VNNB có đặc điểm gì ?

Vi rút có hướng tính cao với tế bào thần kinh, gây bệnh cho người. Vi rút có khả năng tồn tại lâu dài trong cơ thể của các động vật có xương
sống, chủ yếu là lợn và chim hoang dã.
Virut bị diệt ở nhiệt độ cao (sau 30 phút ở nhiệt độ 56oC, sau 2 phút ở 100oC), và khi tiếp xúc với hầu hết các hoá chất khử trùng ở nồng
độ thông thường, hoặc ánh sáng mặt trời.

Quá trình gây bệnh của vi rút VNNB trong cơ thể người như thế nào?

Vi rút VNNB được truyền từ hạch nước bọt muỗi qua da do muỗi đốt người.

Sau khi qua da, hạt vi rút nhân lên tại tổ chức dưới da và tại các mạch lympho vùng, di chuyển tiếp đến các hạch lympho, tuyến ức và cuối cùng
vào máu, gây nhiễm virut huyết của tổ chức ngoài thần kinh.
Virut đến hệ thần kinh trung ương gây sung huyết, phù nề và xuất huyết vi thể ở não. Gây các tổn thương vi thể như
huỷ hoại tế bào thần kinh, thoái hoá tổ chức não, viêm tắc mạch; chủ yếu xảy ra ở chất xám, não giữa và thân não dẫn đến hội chứng não cấp.

Trong quá trình nhân lên và gây bệnh, vi rút VNNB cũng kích thích cơ thể vật chủ sinh kháng thể trong máu và dịch não tuỷ.

Có mấy loại kháng thể và vai trò của mỗi loại như thế nào?

Kháng thể kháng vi rút VNNB do cơ thể người sinh ra, sau khi nhiễm vi rút tự nhiên (mắc bệnh), hoặc sau khi sử dụng vác xin VNNB. Kháng
thể có bản chất là một glô-bu-lin (Ig) miễn dịch.

Có 2 lớp glô-bu-lin miễn dịch quan trọng trong bệnh VNNB là :

·         Kháng thể IgM xuất hiện sớm, ngay sau khi nhiễm virut và tồn tại khoảng 60 ngày, được phát hiện bằng phản ứng MAC-ELISA
và có giá trị trong chẩn đoán xác định bệnh VNNB.
·         Kháng thể IgG xuất hiện muộn hơn nhưng tồn tại trong một thời gian dài, có thể suốt đời, có vai trò chính trong việc
bảo vệ cơ thể. Các phân tử IgG có thể truyền qua nhau thai. Khi bị nhiễm virut lần 2 các phân tử IgG được tổng hợp
tiếp nên hiệu giá kháng thể tăng nhanh và rất cao

Ổ chứa của vi rút VNNB có ở đâu?

Ổ chứa vi rút VNNB trong thiên nhiên chính là các loài động vật có xương sống, là nơi vi rút VNNB nhân lên, lưu giữ lâu dài và từ đó phát tán
rộng.

Ổ chứa vi rút tiên phát là một số loài động vật sống hoang dã như các loại chim, sau đó là một số loài bò sát.

Ổ chứa vi rút thứ cấp là một số loài súc vật nuôi gần người, quan trọng nhất là lợn, sau đó là trâu, bò, dê, cừu, chó, khỉ. Bò và ngựa có thể
mang vi rút nhưng ít khi làm lây nhiễm cho con người.

Cơ thể người nhiễm vi rút VNNB cũng là một loại ổ chứa, nhưng chỉ là tạm thời do thời gian lưu giữ vi rút rất ngắn.

Nguồn truyền nhiễm của bệnh VNNB là loài nào?

Động vật nhiễm vi rút có vai trò là nguồn truyền nhiễm bệnh VNNB cho người.

Nguổn tuyền nhiễm trong thiên nhiên là loài chim, trong đó có một số loài ăn quả vải quả nhãn như tu hú, liếu điếu.

Nguồn truyền nhiễm gần người là một số loài gia súc, trong đó quan trọng nhất là lợn nhà.

Người bệnh có thể truyền vi rút qua muỗi đốt, tuy nhiên trên thực tế người không có vai trò là nguồn truyền nhiễm bệnh VNNB.

Tại sao loài lợn được coi là nguồn truyền nhiễm quan trọng ?

Trong số các loài động vật sống gần người, lợn được coi là nguồn truyền nhiễm quan trọng nhất, vì:

·         Chỉ số lợn bị nhiễm virút VNNB rất cao (khoảng 80% đàn lợn nuôi), và số lượng lợn nuôi tại hộ gia đình rất lớn (hầu hết gia đình ở nông thôn
có nuôi lợn).
·         Sự xuất hiện vi rút VNNB trong máu lợn xảy ra ngay sau khi lợn bị nhiễm virút. Thời gian nhiễm virút huyết ở lợn kéo dài từ 2 đến 4 ngày với
số lượng virút VNNB trong máu đủ để gây nhiễm cho muỗi Culex tritaeniorhynchus.

·         Muỗi Cx. tritaeniorhynchus, véc tơ chính truyền bệnh VNNB cho người, rất ưa thích hút máu lợn.

Bệnh VNNB được lây truyền theo đường nào?

Bệnh VNNB lây theo đường máu, do côn trùng (muỗi) đốt hút máu động vật nhiễm vi rút rồi  đốt người, qua đó truyền vi rút cho người. Muỗi  truyền bệnh VNNB được gọi là véc tơ truyền bệnh.

Vi rút được truyền qua vết đốt của muỗi cái, từ tuyến nước bọt có chứa vi rút.

Bệnh VNNB không thể lây trực tiếp từ người sang người. Ăn uống chung, dùng chung đồ dùng, tiếp xúc gần gũi với người bệnh không làm lây
bệnh.

Có mấy chu trình lan truyền vi rút VNNB?

Có 2 chu trình lan truyền vi rút VNNB chính trong thiên nhiên :

·         Chu trình chim – muỗi – chim: vi rút VNNB được truyền từ con chim nhiễm vi rút sang con chim lành qua các loài muỗi ưa thích hút máu
chim.
·         Chu trình lợn – muỗi – lợn : trong đó vi rút VNNB được truyền từ con lợn nhiễm vi rút sang con lợn lành qua các loài muỗi ưa thích hút máu
lợn.
Giữa 2 chu trình lan truyền trong thiên nhiên có 1 chu trình lan truyền phụ, còn gọi là ngõ cụt sinh học, trong đó muỗi nhiễm vi rút VNNB (từ
chim và lợn) đốt, hút máu người và truyền vi rút cho người lành (xem sơ đồ dưới).                              

Sơ đồ truyền bệnh Viêm não Nhật Bản

Tại sao muỗi có khả năng truyền bệnh VNNB ?
Muỗi ưa đốt và hút máu động vật máu nóng. Chỉ có muỗi cái mới đốt hút máu do đó chỉ có muỗi cái mới có khả năng nhiễm vi rút và truyền bệnh
VNNB.
Một loài muỗi có thể ưa thích đốt hút máu một loài động vật nhất định, nhưng có thể đốt hút máu nhiều loài động vật khác, trong đó có con
người.
Vi rút VNNB có khả năng sinh sản nhân lên trong cơ thể muỗi, tuy nhiên chúng không gây bệnh cho loài muỗi, do đó có thể tồn tại nhiều ngày,
kéo dài thời gian truyền bệnh.

Muỗi có thể truyền vi rút VNNB qua trứng, vì vậy bản thân muỗi cũng được coi là một loại vật chủ của vi rút VNNB trong thiên nhiên.

Loài muỗi nào là vector chính truyền vi rút VNNB ở Việt Nam?

Véc tơ chính truyền bệnh VNNB ở Việt Nam là loài muỗi Culex tritaeniorhynchus. Ngoài ra một số loài Culex khác
cũng có thể có vai trò truyền bệnh như Culex vishnui, Culex gelidus. Vai trò truyền bệnh của một số loài muỗi khác
như Aedes albopictus, Anophele minimus...chưa được chứng minh thực tế.

 

Những đặc điểm sinh lý-sinh thái chính của muỗi Cx. tritaeniorhynchus là gì?

Muỗi thường sinh sống ở vùng lúa nước (nên còn gọi là muỗi đồng ruộng), đặc biệt là các khu ruộng mạ, các chân
ruộng cạnh khu dân cư, khu vườn chim, vùng bán sơn địa.
Ổ ấu trùng (bọ gậy/loăng quăng) của muỗi là ruộng nước, ao hồ đầm nông, các rãnh cấp thoát nước quanh khu dân cư
có nước tù đọng hoặc chảy chậm.
Muỗi trưởng thành có thể sống bằng các chất hữu cơ, nhựa cây cỏ tự nhiên, tuy nhiên muỗi cái có thể đốt hút máu động
vật máu nóng, đặc biệt ưa thích đốt các loài chim và gia súc. Một muỗi cái có thể đốt hút máu nhiều lần, ở nhiều động
vật (nếu chưa no trong một bữa máu) trong một ngày.
Thông thường chiều tối đến đêm (6 giờ chiều đến 9 giờ tối), hoặc buổi sáng sớm muỗi từ cánh đồng bay vào các
chuồng trại để hút máu súc vật. Nếu gặp người chúng có thể đốt hút máu và truyền bệnh.
Muỗi có thể bay xa tới 1,5 km và được phát hiện trên cây cao cách mặt đất 13-15m. Muỗi Culex triteaniorhychus
có thể sinh sản rất nhanh trong mùa mưa ở điều kiện nhiệt độ thường xuyên cao trên 25 độ C và độ ẩm trên 80%.

Muỗi có thể truyền vi rút VNNB trong bao lâu?

Sau khi hút máu động vật có nhiễm vi rút, muỗi tìm nơi trú ẩn tiêu máu. Vi rút nhân lên trong cơ thể muỗi trong vài ngày
(tối đa 14 ngày) thì đủ khả năng truyền bệnh, nếu muỗi đốt hút máu người.
Muỗi cái bị nhiễm virut Viêm não Nhật Bản có khả năng truyền bệnh suốt đời, và có thể truyền virut sang thế hệ sau qua
trứng.
Virut thường phát triển nhanh trong cơ thể muỗi ở 270C–300C. Nếu dưới 200C thì sự phát triển của virut dừng lại. Đó
cũng là lý do tại sao bệnh thường xảy ra từ tháng 4 đến tháng 9 và đỉnh cao là vào tháng 6, tháng 7.

Ai và lứa tuổi nào thường bị bệnh VNNB?

Tất cả mọi người, mọi lứa tuổi nếu chưa có miễn dịch với vi rút VNNB đều có thể bị mắc bệnh. Ở những vùng bệnh
VNNB lưu hành nặng, bệnh gặp chủ yếu ở trẻ em dưới 15 tuổi (chiếm tỷ lệ trên 90% số ca mắc) trong đó đa số là
trẻ từ 1-5 tuổi. Do có vác xin VNNB trong những năm vừa qua, tuổi nhóm trẻ mắc bệnh chủ yếu đã nâng lên. Hiện
tại ở Việt Nam tỷ lệ mắc VNNB cao nhất ở nhóm trẻ em từ 5 – 9 tuổi, hoặc lớn hơn. Người lớn có nguy cơ nhiễm do
chưa từng được tiêm chủng và nhiễm vi rút, khi đi du lịch, lao động, công tác vào vùng lưu hành bệnh VNNB.

Có mấy mức độ bệnh VNNB được ghi nhận?

Có 2 mức độ :

·         Bệnh VNNB lâm sàng : bệnh nhân viêm não cấp, có triệu chứng lâm sàng của bệnh VNNB.

·         Bệnh nhân VNNB xác định phòng thí nghiệm : bệnh nhân có viêm não cấp, có xét nghiệm MAC-ELISA dương
tính với VNNB.

Các thể bệnh VNNB lâm sàng thường gặp?

Bệnh VNNB thể hiện triệu chứng rất đa dạng như:

·         Thể VNNB với viêm não- màng não tuỷ cấp tính, điển hình.

·         Thể viêm màng não nước trong, thường có sốt và đau đầu.

·         Thể nhẹ, thoảng qua với sốt nhẹ, mệt mỏi, có thể đau đầu.

·         Nhiễm virut VNNB không có biểu hiện triệu chứng, thường ở những người đã có miễn dịch. Tại vùng lưu hành
bệnh VNNB cứ 1 trường hợp bệnh điển hình có tới 20 đến 100 người mang vi rút VNNB không triệu chứng.

Biểu hiện của thể bệnh VNNB điển hình như thế nào?

Sau thời gian ủ bệnh từ 5 đến 15 ngày, bệnh sẽ xuất hiện theo 3 giai đoạn:

·         Giai đoạn khởi phát: khoảng từ 1 đến 6 ngày. Bệnh nhân có sốt đột ngột, thường kèm theo ớn
lạnh, mệt mỏi, đau đầu, buồn nôn và nôn.
·         Giai đoạn toàn phát: Tiếp tục sốt cao 38°C- 40°C, kéo dài; có biểu hiện của viêm màng não (đau đầu, cứng
gáy, nôn và buồn nôn, táo bón); biểu hiện rối loạn ý thức (kích thích vật vã hoặc li bì, u ám, có thể đi vào hôn mê);
biểu hiện tổn thương thần kinh trung ương khu trú (co giật, run giật tự nhiên ở ngón tay, lưỡi, mi mắt hoặc toàn
thân, liệt cứng); kèm theo rối loạn thần kinh thực vật. Tỷ lệ tử vong từ 0,3% – 60% tuỳ theo việc phát hiện bệnh
sớm hay muộn, trình độ kỹ thuật hồi sức cấp cứu chống phù não, suy hô hấp, trụy tim mạch và chống bội nhiễm vi
khuẩn.
·         Giai đoạn hồi phục: Nếu qua khỏi, bệnh nhân có thể hồi phục hoàn toàn. Một số trường hợp nặng có thể để lại
di chứng liệt cứng ở chi trên hoặc chi dưới, liệt mặt và/hoặc di chứng rối loạn tinh thần, mất ổn định về tình cảm,
thay đổi cá tính, chậm phát triển trí tuệ.

Dựa vào đâu để chẩn đoán được bệnh viêm não Nhật Bản?

Chẩn đoán một trường hợp bệnh VNNB cần dựa vào 3 yếu tố:

·         Đặc điểm lâm sàng : với các thể bệnh và biểu hiện lâm sàng như mô tả ở trên.

·         Đặc điểm xét nghiệm : dịch não tuỷ (DNT) tăng áp lực và nước trong; bạch cầu máu không tăng; xét nghiệm
Mac-ELISA từ máu hoặc DNT dương tính với VNNB.

·         Đặc điểm dịch tễ: sống ở vùng lưu hành VNNB, nhất là vào mùa bệnh.

Có thể làm giảm tỷ lệ tử vong và di chứng do VNNB không? bằng cách nào?

Có thể được, bằng những biện pháp sau:

·         Gia đình và nhân viên y tế thôn/xã phát hiện sớm các dấu hiệu viêm não cấp của trẻ, xử lý chống sốt và theo dõi chặt
chẽ tiến triển bệnh.

·         Nếu các dấu hiệu viêm não-màng não cấp tiến triển rõ hơn, cần gửi trẻ đến cơ sở điều trị theo đúng tuyến.

·         Các cơ sở điều trị bệnh nhân tích cực, theo đúng phác đồ của Bộ Y tế.

·         Phát hiện sớm di chứng để điều trị hồi phục chức năng cho bệnh nhân.

Cần lấy mẫu để xét nghiệm vi rút vào lúc nào?

Để có kết quả chính xác giúp chẩn đoán ca bệnh VNNB cần lấy mẫu xét nghiệm vào thời điểm thích hợp nhất:

·        Để gửi đi phân lập vi rút : mẫu DNT hoặc máu toàn phần cần lấy sớm, trong 4 ngày đầu của bệnh kể từ khi có sốt.

·        Để xét nghiệm MAC-ELISA: mẫu DNT và máu lấy từ ngày thứ 3-4 của bệnh. Trường hợp lấy mẫu lần 2 để xác
định mức độ tăng hiệu giá kháng thể cần  lấy sau lần 1 ít nhất  7 – 10 ngày, hoặc trước khi bệnh nhân ra viện.

Có phải MAC-ELISA được coi là kỹ thuật xét nghiệm chẩn đoán xác định VNNB hiệu quả nhất hiện nay?

Đúng, vì kỹ thuật xét nghiệm MAC-ELISA :

·         Có khả năng cho kết quả sớm (từ mẫu máu hoặc DNT lấy ngày thứ 3-4 của bệnh)

·         Chỉ cần một mẫu xét nghiệm đơn, không cần lấy mẫu lần thứ 2

·                  Có thể loại trừ phản ứng chéo giữa VNNB và vi rút Dengue (trong cùng nhóm vi rút Flavi)

·         Kỹ thuật dễ thực hiện, không quá tốn kém; trang bị xét nghiệm hiện có ở hầu hết tuyến tỉnh; bộ sinh phẩm do các
Viện VSDTTƯ và Pasteur Hồ Chí Minh sản xuất và cung cấp.

PHÒNG CHỐNG BỆNH VIÊM NÃO NHẬT BẢN

Bệnh Viêm não Nhật bản có phòng ngừa được không? Bằng cách nào?

Bệnh VNNB cho tới nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa được.

Tiêm vác xin VNNB là biện pháp dự phòng chủ động hiệu quả và khả thi nhất

Ngoài ra phối hợp các biện pháp phòng chống khác như: kiểm soát muỗi Culex  truyền bệnh; kiểm soát động vật mang
vi rút gây bệnh; thực hiện vệ sinh môi trường thường xuyên, quy hoạch và cải tạo khu vực dân cư, khu chuồng trại chăn
nuôi để giảm tác hại của véc tơ và vật chủ truyền bệnh.

Ai là người thực hiện các biện pháp phòng chống chủ động bệnh VNNB ?

Mọi người dân trong cộng đồng đều có trách nhiệm và có khả năng phòng chống bệnh VNNB, duy trì sức khoẻ và sự
toàn vẹn về thể lực và tinh thần cho thế hệ trẻ.
Các cộng tác viên (CTV) cộng đồng (nhân viên y tế thôn bản, cán bộ địa chính quyền và đoàn thể ở địa phương,
giáo viên mẫu giáo, mầm non và trường phổ thông cơ sở, người tình nguyện khác
), các học sinh phổ thông…
sẽ là lực lượng quan trọng duy trì hoạt động phòng chống bệnh VNNB thường xuyên ở cộng đồng.
Cán bộ y tế ở tuyến cơ sở (tuyến xã và huyện) là lực lượng chính trong việc phát hiện bệnh dịch và tổ chức công tác
phòng chống VNNB cho cộng đồng.
Cán bộ y tế dự phòng chuyên trách ở tuyến tỉnh, tuyến trung ương có nhiệm vụ theo dõi, đánh giá và duy trì hoạt động
dự phòng chủ động VNNB thường xuyên trên toàn tỉnh và khu vực.

Hoạt động của đội ngũ CTV cộng đồng như thế nào?

Đội ngũ CTV cộng đồng là tổ chức tình nguyện, do chính quyền địa phương đứng ra tổ chức, hoạt động theo sự
hướng dẫn chuyên môn của Trưởng trạm y tế xã/phường. Tiêu chuẩn lựa chọn: những người nhiệt tình với sức khoẻ
cộng đồng; có thời gian cho hoạt động; có trình độ học vấn nhất định; chịu sự phân công của chính quyền, đoàn thể.
CTV phòng chống bệnh VNNB thường được lồng ghép là CTV của các chương trình sức khoẻ khác như phòng
chống sốt xuất huyết, sốt rét…
Đội ngũ CTV phải được tập huấn những kiến thức cơ bản về bệnh VNNB và được hướng dẫn thực hành cách
phòng chống. Việc tập huấn cho CTV do Trung tâm YTDP tuyến huyện, với sự trợ giúp của y tế xã, thực hiện hàng
năm trong thời gian của Dự án và định kỳ hàng năm sau đó.

Tại sao tiêm vắc xin VNNB lại là biện pháp có hiệu quả nhất?

Tiêm vắc xin là biện pháp gây miễn dịch đặc hiệu và lâu bền cho mọi người.

Các chế phẩm vác xin VNNB hiện nay có hiệu quả bảo vệ trên 90%  số người được tiêm ngừa.

Việt Nam đã sản xuất được vác xin VNNB bất hoạt từ não chuột kể từ năm 1993, có hiệu lực bảo vệ rất cao (cho
98% số trẻ được tiêm đủ 3 mũi vác xin), tính an toàn cao và giá thành hạ. Vác xin VNNB được đưa vào chương
trình TCMR nước ta từ năm 1997, hiện đã tiêm ngừa cho khoảng 65% số trẻ dưới 5 tuổi trên cả nước.

Vác xin VNNB nên được tiêm phòng vào thời gian nào?

Đối với trẻ em dưới 5 tuổi : nên tiêm cho trẻ khi được 12-15 tháng tuổi, theo lịch tiêm đủ 3 mũi của chương trình
TCMR. Có thể tiêm nhắc sau 5 năm kể từ mũi tiêm thứ 3.
Đối với trẻ trên 5 tuổi nếu chưa từng được tiêm vác xin VNNB thì tiêm ngay càng sớm càng tốt, theo lịch tiêm đủ 3
mũi cơ bản. Mũi tiêm nhắc sau 5 năm.
Đối với người lớn : nếu chưa từng tiêm vác xin VNNB nên tiêm ngay, theo lịch tiêm 3 mũi cơ bản. Nếu đã từng tiêm
liều cơ bản thì chỉ cần tiêm nhắc 1 mũi.
Nên tổ chức tiêm trước mùa bệnh khoảng 1 tháng vì kháng thể bảo vệ bước đầu chỉ được tạo thành khoảng 3 tuần
sau khi tiêm vắc xin VNNB liều 2, và kháng thể bảo vệ cơ bản chỉ có sớm nhất 1 tuần sau vác xin mũi thứ 3.

Vắc xin VNNB nên dùng cho những đối tượng nào?

Vắc xin VNNB được khuyến khích dùng cho những người sống trong vùng có lưu hành bệnh VNNB, nhất là với trẻ em
từ 1 đến 15 tuổi. Trẻ em từ 1 đến 5 tuổi được tiêm theo chương trình TCMR.
Khách du lịch/người đi lao động, công tác/ người nhập cư đến từ vùng không có miễn dịch, có thời gian lưu trú hơn
1 tháng ở vùng nông thôn và hơn 12 tháng ở thành phố nơi có bệnh VNNB lưu hành.

Những trường hợp nào không được tiêm hoặc hoãn tiêm vắc xin VNNB?

Những người có cơ địa quá mẫn với thiomersal hoặc với các chế phẩm của não chuột, có dị ứng với vác xin VNNB
lần tiêm trước.

Những người đang sốt cao hoặc mắc bệnh nhiễm khuẩn đang tiến triển.

Những người đang mắc bệnh tim, gan, thận, đái tháo đưòng giai đoạn nặng, bệnh ung thư máu và các bệnh ác tính.

Không sử dụng cho trẻ em dưới 12 tháng tuổi và phụ nữ có thai.

Người nhiễm HIV đã chuyển thành AIDS.

Lịch tiêm chủng vắc xin VNNB như thế nào?

–         Liều gây  miễn dịch cơ bản: Tiêm đủ 3 mũi :

·         Mũi tiêm thứ 1 : ngày 0

·         Mũi tiêm thứ 2 : ngày thứ 7 đến 14

·         Mũi thứ 3 cách mũi thứ 2 là 12 tháng.

·         Liều lượng : với trẻ từ 12 đến 36 tháng tuổi tiêm 0,5 ml/mũi; với trẻ từ 3 tuổi trở lên tiêm liều 1 ml/mũi.

·         Đường tiêm : dưới da, mặt ngoài trên cánh tay.

–         Liều tiêm nhắc lại : Nên nhắc lại bằng 1 mũi vắc xin VNNB (liều 1 ml, dưới da) khoảng 5 năm sau liều gây miễn dịch
cơ bản.

Tiêm vắc xin VNNB có thể gặp những tác dụng phụ nào?

Một tỷ lệ nhất định người tiêm vác xin VNNB có thể bị tác dụng phụ, cụ thể:

·         Tại chỗ tiêm: có thể bị đau, xưng, đỏ. Thường gặp ở 5-10% người được tiêm.

·         Một số rất ít có thể có phản ứng toàn thân như sốt nhẹ, đau đầu, mệt mỏi. Các phản ứng phụ nêu trên xuất hiện
khoảng vài giờ sau khi tiêm và thường tự hết sau 1-2 ngày. Phản ứng phụ thường gặp ở mũi tiêm thứ 2 hoặc thứ 3
hơn là ở mũi tiêm thứ 1.
·         Một tỷ lệ cực nhỏ (1 trường hợp trên 1 triệu mũi tiêm) có thể gặp choáng (sốc) sau khi tiêm trong vòng vài giờ, cần
được đưa ngay tới cơ sở y tế gần nhất để xử trí cấp cứu.
Phản ứng phụ có thể được hạn chế nếu thực hiện các mũi tiêm đúng thời gian, liều lượng, đường tiêm và việc khám,
hỏi kỹ tình trạng của trẻ trước khi tiêm cũng như theo dõi tiếp, cho trẻ nghỉ ngơi sau khi tiêm trong vòng 30 phút.

Trước khi tiêm vắc xin VNNB cần thực hiện các quy định gì?

Thông báo cho gia đình hoặc người được tiêm về các lợi ích khi sử dụng và nguy cơ khi không sử dụng vác xin VNNB.

Kiểm tra việc chuẩn bị để đối phó với những phản ứng phụ nặng tức thời xẩy ra.

Đọc kỹ các thông tin về chế phẩm vác xin theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

Kiểm tra lại hạn sử dụng, kiên quyết loại bỏ những lọ vác xin hết hạn.

Kiểm tra và đảm bảo vác xin không từng bị đông băng hoặc ở nhiệt độ cao.

Kiểm tra họ tên người được sử dụng vác xin, đối chiếu với phiếu tiêm chủng.

Kiểm tra và hỏi về tình trạng sức khoẻ của đối tượng để phát hiện các chống chỉ định hoặc hoãn tiêm

Phải làm gì sau khi tiêm vác xin cho trẻ?

Nói với đối tượng về những phản ứng thông thường và những phản ứng nặng cần  được theo dõi, phát hiện sau khi tiêm.

Nói với bà mẹ theo dõi tiếp trẻ trong vòng 30 phút để phát hiện kịp thời những phản ứng phụ có thể gặp.

Ghi phiếu tiêm chủng. Hẹn thời gian tiêm lần sau.

Giám sát bệnh VNNB là gì? Có mấy nội dung giám sát?

Giám sát bệnh VNNB là theo dõi một cách thường xuyên, có hệ thống về tình trạng bệnh VNNB tại một khu vực cùng
với những yếu tố làm phát sinh và lây truyền bệnh trong cộng đồng, từ đó đề xuất biện pháp phòng chống có hiệu quả.

Có 3 nội dung giám sát chính :

·         Giám sát bệnh nhân, giám sát huyết thanh học và tác nhân (vi rút) gây bệnh;

·         Giám sát véc tơ (muỗi Culex) truyền bệnh;

·         Giám sát vật chủ và nguồn truyền nhiễm bệnh VNNB.

Nội dung giám sát người bệnh bao gồm những gì?

Phát hiện và thống kê thường xuyên (theo tuần, tháng, năm) số mắc và số chết do VNNB theo đơn vị hành chính
(xã, huyện, tỉnh), phân cấp phát hiện và thống kê theo tuyến như sau :

·         Tuyến xã/phường : phát hiện và báo cáo được hội chứng não cấp, nghi mắc VNNB;

·         Tuyến huyện : phát hiện và báo cáo được ca bệnh VNNB lâm sàng;

·         Tuyến tỉnh : phát hiện và báo cáo ca bệnh VNNB lâm sàng và ca bệnh xác định phòng thí nghiệm (có kết
quả MAC-ELISA).
Trong một số trường hợp nhất định (giám sát trọng điểm, giám sát theo yêu cầu dự án, chương trình…) cần thống kê,
báo cáo thêm về đặc điểm dân số học (tuổi, giới tính, nghề nghiệp…),  tình hình tiêm chủng, miễn dịch và một số
đặc điểm khác của bệnh nhân VNNB.

Nội dung giám sát huyết thanh bệnh VNNB là gì?

Điều tra dịch tễ huyết thanh học ở người để phát hiện tình trạng miễn dịch quần thể trong cộng đồng, nhất là ở nhóm
tuổi dưới 15 tại vùng lưu hành bệnh VNNB, vùng đã tiêm vắc xin VNNB.

Điều tra dịch tễ huyết thanh học ở quần thể lợn để xác định mức độ nghiêm trọng của ổ chứa virut VNNB gần người.

Nội dung giám sát tác nhân bệnh VNNB là gì?

Phân lập virut VNNB trên muỗi (muỗi trưởng thành hoặc ấu trùng muỗi culex) bắt được tại nơi giám sát trong những
tháng mùa dịch.

Điều tra, phân lập virut từ chim hoang dã, súc vật nuôi gần người để phát hiện ổ chứa virut VNNB địa phương.

Phân lập virut VNNB trên bệnh nhân từ dịch não tủy, máu giai đoạn sớm bị nhiễm huyết hoặc từ não của tử thi mắc
VNNB lâm sàng.

Bệnh phẩm được bảo quản và vận chuyển như thế nào?

Mẫu huyết thanh: Bảo quản trong đá th­ường hoặc đá khô (có thể ở nhiệt độ môi tr­ường nếu thời gian vận chuyển
ngắn trong vòng 2 giờ).
Dịch não tuỷ: Bảo quản trong đá th­ường hoặc đá khô (trong một số tr­ường hợp nếu dùng mẫu để phân lập vi rut cần
bảo quản trong đá khô)
Các loại mẫu khác như muỗi trưởng thành, ấu trùng muỗi, mẩu phủ tạng tử thi…cũng cần được bảo quả lạnh như với
mẫu máu.
Các mẫu cần đóng gói theo đúng quy định đóng gói và vận chuyển bệnh phẩm tác nhân truyền nhiễm nguy hiểm tr­ước
khi gửi đi.
Những thông tin cần thiết gửi cùng mẫu bệnh phẩm: Họ tên người bệnh hoặc mã số bệnh phẩm; Ngày xuất hiện
triệu chứng của bệnh; Ngày lấy mẫu; Dấu hiệu lâm sàng viêm não; Lịch sử tiêm phòng vắc xin VNNB.

Giám sát véc tơ là gì, bao gồm những nội dung gì?

Giám sát véc tơ là giám sát loài muỗi Culex tritaeniorhynchus, bao gồm cả muỗi trưởng thành và ấu trùng muỗi.

Giám sát muỗi trưởng thành :

–         Bắt muỗi tại nhà ở và chuồng gia súc, vào thời điểm buổi tối.

–         Định loại muỗi : xác định loài muỗi Culex tritaeniorhynchus.

–         Xác định những chỉ số giám sát chính : Chỉ số nhà có muỗi (%); Chỉ số chuồng gia súc có muỗi (%); Chỉ số mật độ
muỗi theo nhà (con/nhà); Chỉ số mật độ muỗi theo chuồng gia súc (con/chuồng).

Giám sát ấu trùng muỗi (bọ gậy/loăng quăng):

–         Bắt bọ gậy tại ruộng lúa, ao hồ, mương rãnh quanh khu dân cư.

–         Định loài bọ gậy Culex tritaeniorhynchus, hoặc tiếp tục nuôi cho nở thành muỗi trưởng thành để định loại.

–         Xác định những chỉ số giám sát chính : Chỉ số thuỷ vực có bọ gậy (%); Chỉ số mật độ bọ gậy (con/lít nước;
con/ m2 bề mặt nước; con/vợt)
–     Giám sát mức độ nhạy cảm của muỗi Culex tritaeniorhynchus đối với hoá chất diệt muỗi thường dùng : định
kỳ (ít nhất 1 lần/năm) thử nghiệm độ nhạy với hoá chất của loài muỗi Culex tritaeniorhynchus bắt được tại địa
phương, theo thường quy của TCYTTG.        

Nội dung của giám sát vật chủ/ ổ chứa vi rút VNNB?

Đối tượng giám sát : loài lợn nhà có tại địa phương giám sát; có thể mở rộng giám sát loài chim ăn quả thường xuất
hiện theo mùa ở địa phương.

Thời gian giám sát : thường tiến hành trước mùa dịch bệnh VNNB.

Giám sát theo các chỉ số chính : Số lượng con lợn/xã, huyện; Chỉ số hộ gia đình có nuôi lợn/tổng hộ gia đình (%);
Chỉ số mật độ (con lợn/hộ gia đình); Chỉ số huyết thanh lợn (tỷ lệ % con lợn có kháng thể VNNB/tổng số con lợn
điều tra); Chỉ số huyết thanh loài chim (tỷ lệ % con chim có kháng thể/tổng số con chim bắt được).

Những nội dung chính phòng chống vectơ truyền bệnh VNNB là gì?

Có 3 nhóm biện pháp chính :

·         Biện pháp chống muỗi đốt cho người và gia súc

·         Biện pháp diệt muỗi trưởng thành và ấu trùng muỗi : bằng các tác nhân sinh học, hoá chất, cơ học.

·         Biện pháp hạn chế sự pháp triển của quần thể muỗi và tác hại của muỗi và của vật chủ, ổ chứa vi rút : cải tạo môi
trường khu dân cư, vệ sinh môi trường, nguồn nước, di rời khu chăn nuôi xa nhà ở…

Có thể chống muỗi đốt bằng những biện pháp nào?

–         Nằm màn thường xuyên, có thể sử dụng màn tẩm hoá chất permethrin có hiệu lực xua diệt muỗi trong vòng 3 tháng.

–         Sử dụng tấm rèm che chống muỗi ở cửa ra vào, cửa sổ nhà ở và chuồng gia súc. Có thể tẩm rèm, mành che bằng
permethrin, có tác dụng bảo vệ trong vòng vòng 3 tháng.
–         Sử dụng bình xịt hoá chất cá nhân, hương muỗi cho các không gian khép kín nhằm diệt muỗi trưởng thành. Dùng
hương muỗi hoặc xông khói cho chuồng gia súc.
–         Duy trì mặc quần áo dài ống, đi tất cho trẻ em nhằm hạn chế muỗi đốt, nhất là vào giờ cao điểm (6-10 giờ đêm).
Sử dụng các biện pháp xua đập muỗi cơ học vào lúc chập tối và sáng sớm cho nhà ở và chuồng gia súc.
–         Sử dụng kem xua ngoài da hoặc các biện pháp chống muỗi đốt khác cho trẻ em và người chăm sóc, thu hoạch vải,
nhãn khi làm việc tại khu vườn cây ăn quả, nhất là vào mùa bệnh VNNB.

Những tác nhân sinh học nào có thể diệt bọ gậy/loăng quăng muỗi Culex?

–         Những loài cá có vẩy ăn nổi, có năng xuất cao được nuôi tại ao, hồ, các thủy vực lớn.

–         Những loài cá nhỏ, có sức chống chịu hạn cao được nuôi thả, duy trì tại các ruộng lúa nước hoặc thuỷ vực nhỏ
quanh khu dân cư, khu chuồng trại gia súc.
–         Những loài cá hiện đang được khuyến khích nuôi thả để diệt bọ gậy muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết cũng có thể
diệt ấu trùng muỗi Culex, tuy với hiệu quả thấp hơn.

Có nên sử dụng hoá chất diệt muỗi trưởng thành ?

Có thể sử dụng hoá chất diệt côn trùng để phòng bệnh VNNB; tuy nhiên đây không phải là biện pháp được khuyến
khích
và phải có chỉ định chặt chẽ của Trung tâm YTDP tuyến tỉnh hoặc Viện VSDT/Pasteur khu vực.

Có thể sử dụng những kỹ thuật sau để diệt muỗi trưởng thành:

·         Phun tồn lưu hoá chất tại khu chuồng trại gia súc có mái che, tiến hành 1 đợt vào trước mùa dịch bệnh VNNB
(tháng 3-4), áp dụng cho vùng có lưu hành bệnh VNNB mức độ nặng. Thường sử dụng hoá chất nhóm pirethroid
hoặc lân hữu cơ.
·         Phun không gian (phun ULV) hoá chất tại khu dân cư, tiến hành khi có dịch hoặc đe doạ có dịch bệnh VNNB,
cùng với mật độ muỗi culex tăng rất cao. Thường sử dụng hoá chất Deltamethrin (K-othrin) có tác dụng diệt muỗi
nhanh, rất ít độc.
·         Không có chỉ định phun hoá chất ở khu ruộng lúa hay vườn cây ăn quả để diệt muỗi, trừ các hoá chất dùng với
mục đích trừ sâu hại nông nghiệp.
·         Có thể sử dụng hoá chất permethrin tẩm màn, mành che cửa nhằm diệt và xua muỗi trưởng thành cho người và gia
súc.
·         Sử dụng bình xịt gia đình, hương tẩm hoá chất để xua diệt muỗi vào thời gian mật độ muỗi cao hoặc có bệnh nhân
VNNB.

Tại sao cần di rời chuồng gia súc ra xa nhà ở và mức độ di rời?

Loài muỗi Culex rất ưa đốt hút máu gia súc nhất là lợn, ngoài ra có thể đốt hút máu trâu, bò, ngựa, dê, chó, mèo, thỏ….

Muỗi thường trú đậu ở đồng lúa, nhưng cũng có thể trú đậu ở bờ bụi quanh chuồng gia súc, hoặc ở ngay trong khu
chuồng gia súc nếu chúng ta không chú ý vệ sinh chuồng trại và thường xuyên xua diệt muỗi cho gia súc.
Trong quá trình di chuyển từ cánh đồng hoặc bờ bụi quanh nhà vào chuồng gia súc nếu gặp người muỗi có thể đốt và
truyền bệnh VNNB cho con người.
Khi quy hoạch khu gia đình nên duy trì khoảng cách giữa chuồng gia súc với nhà ở càng xa càng tốt, tối thiểu đạt
được khoảng cách 50 mét. Chuồng gia súc phải được xây kín đáo song thông thoáng, có mái che và nên có mành rèm
che cửa ra vào để chống muỗi; được làm vệ sinh thường xuyên.

Cải tạo khu dân cư theo hướng nào để có thể hạn chế tác hại của muỗi và vật chủ truyền bệnh VNNB ?

Nhà ở làm thông thoáng song kín đáo để có thể treo lưới, rèm, mành kiểm soát và hạn chế sự ra vào của muỗi trưởng
thành.

Xây dựng chuồng gia súc xa khu nhà ở, khu làm việc, khu nhà trẻ, trường học.

Xây dựng khu vườn cây ăn quả, nhất là vườn nhãn, vải hấp dẫn chim tu hú, liếu điếu xa nhà ở và khu làm việc, nhà
trẻ, trường học phổ thông; kết hợp sử dụng hoá chất nông nghiệp để hạn chế sự phát triển của muỗi.

Xây dựng công trình cấp thoát nước quanh khu gia đình để làm sao có thể kiểm soát, hạn chế muỗi sinh sản.

Hạn chế tối đa các bờ bụi cây hoang dại quanh khu nhà ở có thể làm nơi trú đậu của muỗi.

Còn đối với các nguồn nước là nơi sinh sản của muỗi truyền bệnh VNNB ?

–         Đối với các thủy vực lớn (ao, hồ, đầm, khúc sông…): nên thường xuyên làm sạch rong rêu (vật thể bám và trú ẩn
của ấu trùng muỗi), nuôi thả các loại cá ăn nổi , duy trì có mật độ cao đặc biệt vào mùa xuân –hè và mùa hè.
–         Đối với các nguồn nước nhỏ hơn: như vũng nước, rãnh thoát nước, bể nước lớn hoặc bể cảnh lớn trong nhà…nếu
không lấp bỏ được thì cần làm cạn, làm vệ sinh khơi thông dòng chảy thường xuyên hoặc thả cá có thể ăn bọ
gậy các loài muỗi.
–         Những vật chứa nước phế thải nhỏ quanh khu dân cư cũng có thể là nơi sinh sản của muỗi truyền bệnh VNNB, vì
vậy cũng cần được thu gom, lật úp, tiêu huỷ hàng ngày hoặc bằng các chiến dịch vệ sinh môi trường.
–  Đối với khu ruộng lúa nước, nhất là các chân ruộng lúa nước sát khu dân cư nên chú ý khâu điều tiết tưới tiêu, kết
hợp nuôi thả cá có khả năng chống chịu hạn cao để ăn bọ gậy.

 

Có thể phòng chống nhiễm vi rút VNNB cho gia súc được không ? Bằng cách nào ?

Về lý thuyết có thể phòng chống nhiễm vi rút VNNB cho gia súc bằng cách tiêm vác xin gây miễn dịch với VNNB cho
đàn lợn.
Tuy nhiên trên thực tế việc gây miễn dịch cho đàn lợn bằng vác xin là không khả thi vì sẽ rất tốn kém, ít hiệu quả do
lợn bị luân chuyển thay đàn thường xuyên, hiệu lực vác xin kém đối với lợn con dưới 6 tháng tuổi.
Chỉ có thể phòng chủ động cho đàn gia súc bằng các biện pháp khống chế véc tơ, chống muỗi đốt cho lợn và các
loài gia súc khác, bảo đảm vệ sinh chuồng trại và phun tồn lưu hoá chất diệt muỗi khu chuồng trại vào đầu mùa
dịch bệnh VNNB.
Nguồn : Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương