Mắc bệnh dạ dày thận trọng thuốc
Trong điều trị bệnh dạ dày, có trường hợp người bệnh chỉ phải uống đơn thuần các thuốc trị bệnh này nhưng cũng có khi phải uống thêm nhiều thuốc khác vì họ đồng thời mắc thêm các bệnh khác. Do vậy mà chúng ta cần lưu ý và lường trước những biến cố có thể gặp do phối hợp thuốc.
Những thuốc dạ dày điển hình
Bệnh viêm loét dạ dày là bệnh hay gặp nên các thuốc chủ yếu dùng trong bệnh dạ dày, tá tràng là các thuốc chống viêm loét. Chúng bao gồm các thuốc chủ yếu sau: thuốc trung hoà axit, giảm tiết axit, che phủ ổ loét, trị vi khuẩn HP và kích thích liền niêm mạc. Trên thị trường thực tế 4 loại thuốc đầu rất phổ biến và rất thường gặp trong công tác điều trị. Còn loại thuốc thứ 5 ít gặp hơn.
Xét về khía cạnh điều trị, các thuốc ức chế tiết axit là những thuốc có ý nghĩa nhất nhưng cũng cần phải lưu ý nhất. Bởi chúng làm giảm hẳn một cách có ý nghĩa nguyên nhân gây ra bệnh là axit HCl và gần như bất kỳ một đơn thuốc trị bệnh dạ dày nào cũng cần phải có tối thiểu loại thuốc này. Hơn nữa, loại thuốc này lại phải sử dụng lâu dài.
Các thuốc điển hình có thể kể ra đây là các thuốc ức chế thụ cảm thể H2 của histamin như cimetidin, zanitidin, famotidin hay các thuốc ức chế bơm proton H+ như omeprazol, lanzoprazol, pantoprazol…
Trên thực tế có những người bệnh vừa bị viêm loét dạ dày tá tràng vừa bị đồng thời thêm một bệnh khác như bệnh động kinh hoặc các bệnh rối loạn đông máu. Vì thế mà điều trị kết hợp là bắt buộc nên cần phải chú ý đến sự tương tác của thuốc. Nhiều khi sự tương tác là nguy hại vì chúng gây ra những biến cố không thể khắc phục được.
Lưu ý khi phối hợp với các omeprazol
Các thế hệ omeprazol hoạt động chủ yếu bằng cách ức chế hoàn toàn bơm H+ ở thành dạ dày. Bơm bị ức chế thì dạ dày không có ion H+ và do đó không có axit. Đánh giá một cách tổng thể, thuốc có hiệu lực điều trị khá mạnh và rất có tác dụng.
Tuy nhiên cần hết sức lưu ý khi sử dụng phối hợp giữa một bên là các omeprazol với một bên là các thuốc chống động kinh thế hệ cũ phentoin (điển hình là dihydan), thuốc chống đông máu warfarin và thuốc an thần loại diazepam (điển hình là seduxen) vì omeprazol ngăn cản sự thải trừ các thuốc này. Tác dụng đó đồng nghĩa với việc tích luỹ, kéo dài và nhiễm độc các thuốc bên trong cơ thể. Bằng những nghiên cứu trên thực nghiệm, người ta thấy tốc độ thải trừ seduxen bị giảm đi 54% và sau đó định lượng nồng độ thuốc này trong máu người ta thấy nó tăng lên 130% so với những người không sử dụng omeprazol.
Rõ ràng ở những trường hợp này, người sử dụng phải hết sức lưu ý là bởi nó có thể gây ra tai nạn cho người uống vì thuốc an thần seduxen bị tích luỹ đến tận ngày hôm sau, có thể họ sẽ bị bệnh chảy máu do sự có mặt kéo dài của thuốc chống đông warfarin trong cơ thể. Đồng thời, mỗi bác sĩ cần lường trước những tình huống này mà có thể cân nhắc giảm liều trong điều trị.
Cẩn trọng khi có mặt các thế hệ cimetidin
Cimetidin là thuốc ức chế thụ cảm thể H2 của histamin, vì thế mà các kích thích tiết axit không có hữu dụng. Khác với nhóm thuốc ức chế bơm proton, các thế hệ cimetidin không ức chế con đường chung cuối cùng nhưng hiệu quả của nó cũng được chứng minh là có hiệu lực làm giảm axit. Song cũng giống như omeprazol, cimetidin làm kéo dài thời gian có mặt của các thuốc chống đông máu loại warfarin, thuốc chống động kinh phenytoin, thuốc chống hen phế quản theophyllin, thuốc điều trị rối loạn nhịp tim lignocain, flecanide…
Người ta thấy khi có mặt cimetidin, nồng độ thuốc làm chậm nhịp tim của flecanide bị tăng cao 30%. Sự kéo dài thuốc này sẽ làm rối loạn nhịp tim từ nhịp tim nhanh bệnh lý sang thành nhịp tim chậm bệnh lý và gây ra những biến cố nghiêm trọng. Đo đạc nồng độ các thuốc chống đông máu, người ta thấy nồng độ các thuốc này bị tăng thêm 20% so với chu kỳ thải trừ bình thường của nó. Với những người đang có tăng đông máu như xơ vữa động mạch thì hiệu lực này là có ý nghĩa. Nhưng một khi kéo dài các warfarin trong cơ thể thì các cơ chế cầm máu bị bất hoạt và khi đó chỉ cần một va chạm nhẹ cũng có thể gây xuất huyết.
Trong khi đó, các cimetidin có thể làm tăng nồng độ thuốc theophyllin trong máu lên tới 60%. Ở đây, theophyllin là thuốc điều trị hen phế quản do nó ức chế sự co thắt của cơ trơn phế quản. Theophyllin là một thuốc có hiệu lực mạnh và có tác dụng tốt nhưng sự ứ đọng của nó trong cơ thể người sử dụng có thể gây ra những biến cố nguy hại. Cơ chế gây tích luỹ theophyllin như vậy được giải thích là do cimetidin ức chế enzym chuyển hoá theophyllin là cytochrom P450 và P448 của tế bào gan. Do vậy mà thuốc này bị tăng lên trong máu.
Những đối tượng cần lưu ý
Đứng trước những tương tác thuốc không mong muốn trên, chúng ta cần phải đặc biệt lưu ý nhất là với những đối tượng bị đồng thời nhiều bệnh đi kèm với bệnh đường tiêu hoá như người bị bệnh động kinh, bị xơ vữa động mạch, phải điều trị hen phế quản, người có sử dụng thêm các thuốc an thần, thuốc ngủ hay những người bị rối loạn nhịp tim nhanh đang điều trị với thuốc làm chậm nhịp.
Sự lưu ý ở đây ở cả hai phía: bác sĩ và người bệnh. Với bác sĩ, cần tìm hiểu kỹ thông tin từ người bệnh, khám toàn diện để biết những bệnh đi kèm. Có thể phải cân nhắc giảm liều với loại thuốc bị tích luỹ. Còn với người bệnh, cần hiểu những tương tác không có lợi mà thông báo cho bác sĩ đầy đủ những thuốc đang sử dụng. Cũng cần tự theo dõi trong quá trình uống thuốc để kịp thời phát hiện ra những bất thường và kịp thời phản hồi cho bác sĩ để có những sự điều chỉnh phù hợp. Nếu không có sự phối hợp đồng bộ, có thể chỉ một sai sót nhỏ có thể dẫn tới những hậu quả không thể khắc phục được.
BS. Văn Hưng -suckhoedoisong