Viêm VA ở trẻ – Chớ xem nhẹ!

Viêm VA là bệnh lý thường gặp ở trẻ nhỏ từ 1 – 5 tuổi, tỷ lệ viêm VA chiếm khoảng 20-30% nhiễm khuẩn hô hấp trên. Bệnh hay tái phát và thường gây biến chứng như viêm tai giữa, viêm mũi xoang, viêm phế quản, gây tắc nghẽn đường thở kéo dài ảnh hưởng đến sự phát triển sọ mặt của trẻ. Bệnh tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng gây nhiều phiền phức và ảnh hưởng đến sức khỏe, sinh hoạt và ăn uống của trẻ em.

VA là gì?

VA là 2 chữ viết tắt của cụm từ tiếng pháp “Végétations Adénoides’’. VA là tổ chức lymphô nằm ở vòm mũi họng thuộc vòng bạch huyết Waldayer. Bình thường mọi trẻ em đều có VA từ khi sinh ra, VA phát triển mạnh từ 1-5 tuổi, sau đó teo đi khi trẻ lớn lên.

Ảnh minh họa (nguồn Internet)

Vị trí, vai trò của VA trong cơ chế miễn dịch

Để tránh bị viêm VA

Giữ vệ sinh tai mũi họng. Việc rửa mũi và hút mũi rất quan trọng vì nó loại bỏ mủ và dịch viêm khỏi mũi làm trẻ dễ thở và bệnh mau khỏi. Bố mẹ hoặc người chăm trẻ phải biết cách rửa mũi, vệ sinh mũi trong giai đoạn bị bệnh và hằng ngày. Điều trị tốt các đợt viêm VA cấp để tránh biến chứng.

VA nằm ở vòm họng gần cửa mũi sau. VA có nhiều thùy, nhiều lá để làm tăng diện tiếp xúc của VA với không khí thở vào. VA chứa nhiều bạch cầu, khi vi khuẩn xâm nhập từ không khí thở vào, chúng sẽ bám vào các thùy, các lá của VA, ở đó có chứa nhiều tế bào lympho B, chúng có nhiệm vụ giữ các vi khuẩn và đưa vào trung tâm mần, vi khuẩn được nhận diện và cơ thể sẽ tiết ra chất chống lại gọi là kháng thể. Nhiệm vụ miễn dịch của VA tuy không lớn như vai trò của amidan khẩu cái nhưng rất cần thiết cho trẻ từ 6 tháng đến 3 tuổi.

Nhận biết khi trẻ viêm VA

ViêmVAcấp: Trẻ thường biểu hiện sốt trên 38oC, có trường hợp sốt cao 39 – 40oC, có thể kèm biểu hiện kích thích hoặc co giật, trẻ quấy khóc, khó chịu. Trẻ bị ngạt tắc mũi và thường ngạt hai bên, ngạt tăng khi nằm, trẻ phải há miệng để thở, bỏ ăn, bỏ bú, nôn trớ. Sau đó trẻ xuất hiện chảy mũi cả hai bên, lúc đầu chảy dịch nhầy sau chảy dịch đặc dần, trắng đục, số lượng tăng nhiều hơn. Một số bé có biểu hiện rối loạn tiêu hoá như đau bụng, nôn trớ và đi ngoài phân lỏng. Khi thăm khám thấy mũi nhiều mủ, niêm mạc mũi sung huyết đỏ, khám họng thấy niêm mạc họng đỏ, có nhiều mủ nhầy trắng chảy từ vòm xuống thành sau họng. Khám tai thường thấy màng tai sung huyết, chúng ta cần chú ý vì viêm tai giữa là một biến chứng thường gặp của viêm VA, cần phải theo dõi liên tục các dấu hiệu về tai.

ViêmVAmạn tính: Là tình trạng quá phát hoặc xơ hoá của VA sau nhiều lần viêm bán cấp tính. Trẻ chảy mũi thường xuyên, nhiều hoặc ít, dịch khi trong khi đục, nhiều khi chảy mũi xanh kéo dài. Trẻ thường ngạt mũi phải thở bằng miệng, ngủ không ngon giấc, hay hoảng hốt, giật mình. Có trường hợp trẻ ngủ ngáy và có những cơn ngừng thở khi ngủ, có thể sốt nhẹ hoặc không sốt. Thăm khám thấy mũi có nhiều dịch nhầy đục hoặc vàng xanh, VA to che kín cửa mũi sau hoặc nhỏ hơn nhưng viêm đỏ và có nhiều dịch nhầy bám, họng có nhiều dịch nhầy. Khám tai màng tai thường dày, đục hoặc biểu hiện rõ ràng của một trường hợp viêm tai thanh dịch.

ViêmVAcó nguy hiểm không?

Viêm VA thường không nguy hiểm đến tính mạng của trẻ nhưng bệnh thường tái phát và hay gây các biến chứng:

– Biến chứng ở tai là nhóm biến chứng thường gặp nhất như viêm tai giữa cấp, viêm xương chũm cấp, viêm tai thanh dịch do quá trình viêm lan vào tai thông qua lỗ vòi tai. Sau điều trị viêm VA, các dấu hiệu ho, sốt, chảy mũi có thể giảm hoặc hết nhưng viêm tai thanh dịch vẫn còn. Bệnh thường tiến triển âm thầm, với trẻ nhỏ khó phát hiện dấu hiệu nghe kém và trẻ không đau tai do vậy bệnh có thể bị bỏ qua làm ảnh hưởng đến phát triển ngôn ngữ, học tập của trẻ do nghe kém và bệnh lâu dần sẽ chuyển thành viêm tai xẹp, ảnh hưởng nhiều đến sức nghe.

– Biến chứng ở mũi xoang: gây viêm mũi xoang. Viêm xoang sàng cấp xuất ngoại là một thể nặng của viêm xoang trẻ nhỏ, quá trình viêm ở xoang sàng cấp có thể lan vào mắt gây các biến chứng ở ổ mắt, nếu không điều trị kịp thời có thể gây mù. Những trường hợp này đều phải nhập viện để mổ cấp cứu dẫn lưu mủ trong xoang và trong ổ mắt ra ngoài, bệnh nhân có thể nằm viện dài ngày.

– Gây viêm thanh quản, khí quản, phế quản, viêm phổi trẻ thường phải nhập viện điều trị.

– Gây ngủ ngáy và ngừng thở khi ngủ thường phối hợp với viêm amidan quá phát. Nếu trẻ ngủ ngáy và có nhiều cơn ngừng thở, bệnh kéo dài có thể dẫn đến suy tim và sau đó có thể gây ngừng thở và tử vong khi ngủ.

– Trẻ có “bộ mặt VA”: Do rối loạn phát triển khối xương mặt và lồng ngực. Biểu hiện: mặt dài, hàm trên vẩu, răng hàm trên mọc lởm chởm, hàm dưới hẹp, luôn hở miệng, xương ức dô ra trước, xương sườn lép, ngực không nở.

Khi nào thì nạo VA?

Trẻ có chỉ định nạo VA khi: viêm VA mạn tính có nhiều đợt viêm bán cấp trong năm; viêm VA gây biến chứng như viêm tai giữa, viêm tai thanh dịch, viêm nhiễm đường hô hấp…; viêm VA gây ngủ ngáy, có cơn ngừng thở khi ngủ. Thường nạo VA khi trẻ trên 1 tuổi.

ThS.Lê Tuấn Anh (BV Tai mũi họng TW)

Nguồn: suckhoedoisong.vn

 

Từ khóa: