Bệnh ung thư đại tràng: Nguyên nhân, triệu chứng cách phòng và điều trị

Ung thư đại tràng là loại ung thư thường gặp ở các nước phương Tây, đứng hàng thứ hai sau ung thư phổi. Tuy nhiên trong những năm gần đây, do sự thay đổi về thói quen sinh hoạt và lối sống, bệnh có xu hướng tăng lên ở châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng.

Biểu hiện lâm sàng nghèo nàn, dễ nhầm lẫn với các bệnh lý khác ở đại tràng, do vậy gặp rất nhiều khó khăn trong chẩn đoán và điều trị, làm cho tỷ lệ tử vong khá cao.

I. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH UNG THƯ ĐẠI TRÀNG:

Cho đến nay người ta vẫn chưa rõ nguyên nhân gây ra ung thư đại tràng. Một số bệnh hoặc trạng thái bệnh được coi là dễ chuyển thành ung thư đại tràng:

Các nghiên cứu mới nhất được tổng hợp từ hơn 100 tạp chí quốc tế chuyên nghiên cứu về mối liên hệ giữa các tác nhân chủ yếu gây ra ung thưđại tràng bao gồm rượu, thuốc lá, người có triệu chứng mắc bệnh đái tháo đường, bệnh béo phì và thức ăn hằng ngày. Nghiên cứu này đã phát hiện, các tác nhân chủ yếu trong thói quen sinh hoạt hằng ngày nhưuống quá nhiều rượu và hút quá nhiều thuốc chính là hai tác nhân chính gây ra ung thưđại tràng.

Polýp: polýp nhung mao, polýp đơn độc kích thước l-2cm trở lên, bệnh polýp đại tràng ở những phụ nữ bị ung thư vú hay ung thư tử cung thì có nguy cơ bị ung thư đại tràng  cao hơn những người không bị. Bệnh viêm loét đại tràng, bệnh Crohn đại tràng  cũng có thể là cơ sở cho ung thư đại tràng phát triển (3-5%).

Vai trò gián tiếp của các chất ăn uống: Phần lớn ung thư trực tràng có liên quan đến yếu tố môi trường. Nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy có sự liên quan trực tiếp giữa bệnh và sự tiêu thụ nhiều năng lượng, thịt, ăn nhiều dầu mỡ và sự gia tăng cholesterol trong máu cũng như bệnh mạch vành.

Người ta cho rằng ăn nhiều mỡ động vật làm gia tăng tỷ lệ vi khuẩn khí trong ruột, hậu quả là biến đổi acid mật thành chất sinh ung thư.

Một số nghiên cứu khác thì cho rằng người ăn nhiều chất xơ thì ít có nguy cơ ung thư đại tràng hơn người ăn ít chất xơ. Giả thuyết này cho rằng, có thể chất xơ làm gia tăng vận chuyển thức ăn qua ruột do đó làm giảm sự tiếp xúc chất sinh ung thư với niêm mạc đại tràng; hơn nữa thức ăn ít xơ gây nên táo bón kinh niên làm dễ xuất hiện các túi thừa.

Yếu tố di truyền: theo kiểu gen trội những người gia đình có người đã bị ung thư đại tràng hoặc ung nhiều tạng khác hoặc có bệnh polýp gia đình…. thì tỷ lệ bị ung thư đại tràng cao hơn người ở các gia đình khác.

II. CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH UNG THƯ ĐẠI TRÀNG:

Ung thư đại tràng với một thời gian dài không có triệu chứng, khi có các biểu hiện sau đây cần phải đến khám bác sĩ:

– Chảy máu trực tràng, bất luận theo kiểu gì và số lượng bao nhiêu.

– Thay đổi thói quen bài phân: táo bón, tiêu chảy hoặc táo bón chảy xen kẽ mới xuất hiện gần đây và kéo dài.

– Đau quặn bụng và đại tiện có mót rặn.

– Sốt thiếu máu và tổng trạng suy giảm.

Khi đã phát hiện ra u, tùy theo vị trí của khối u mà có những triệu chứng thay đổi như sau:

– Ung thư đại tràng phải: biểu hiện bởi các triệu chứng toàn thân như: mỏi mệt, thiếu máu nhược sắc, sốt và đau bụng mơ hồ, khám thường sờ được khối u vùng hố chậu phải hoặc nửa bụng bên phải trong 50% trường hợp; biểu hiện rối loạn tiêu hóa chủ yếu là tiêu chảy.

– Ung thư đại tràng trái: thường nhanh chóng đưa đến chít hẹp lòng đại tràng đưa đến táo bón và đau quặn bụng. Khi u nằm ở phần thấp thường phân có dải và dính giây máu. Khối u chỉ sờ thấy trong ¼ trường hợp.

– Ung thư trực tràng được gợi ý trước tiên là do thay đổi thói quen bài phân, có mót rặn và đau sau hậu môn khi đại tiện; chảy máu trực tràng rất đa dạng với toàn máu, hoặc phân nhầy máu hoặc máu chảy riêng ra sau khi đại tiện với số lượng cũng rất thay đổi. Đa số trường hợp thăm trực tràng có thể phát hiện khối u.

Tuy nhiên cũng có trường hợp ung thư đại tràng chỉ phát hiện do di căn nhất là di căn gan hoặc do tắc ruột.

III. CHUẨN ĐOÁN BỆNH UNG THƯ ĐẠI TRÀNG:

Để chẩn đoán sớm ung thư trực đại tràng nhất là khi có các triệu chứng nghi ngờ thì cần thăm trực tràng, soi trực tràng sigma, chụp baryt đại tràng và nếu cần thì soi đại tràng toàn bộ.

Thăm trực tràng là một khám nghiệm rất có giá trị cho việc chẩn đoán ung thư trực tràng khi sờ thấy một khối cứng, gồ ghề và có máu dính găng, cần xác định tính chất di động hay đã dính chặt vào cơ quan kế cận trong khung chậu.

Soi trực tràng sigma: đây là một thủ thuật đơn giản giúp phát hiện 2/3 đến 3/4 ung thư đại tràng, cần phối hợp với sinh thiết hoặc cắt bỏ các khối u nhỏ còn nằm ở bề mặt.

Chụp phim baryt đại tràng: cũng giúp phát hiện các khối u có đường kính trên 2cm.

Soi đại tràng toàn bộ: cho kết quả rất tốt về mặt hình thái, đồng thời kết hợp với sinh thiết sẽ giúp chẩn đoán sớm; đây là biện pháp cần thiết, tiến hành với các bệnh nhân có nguy cơ cao ung thư đại tràng 3 – 6 tháng/lần.

Siêu âm nội soi hoặc CT Scanner: trong ung thư trực tràng khu trú dưới niêm mạc thì siêu âm nội soi hoặc CT Scanner là phương tiện chính giúp chẩn đoán và giúp phát hiện di căn quanh trực tràng và cơ quan kế cận.

IV. ĐIỀU TRỊ UNG THƯ ĐẠI TRÀNG:

Đối với ung thư đại tràng chưa biến chứng, phương pháp điều trị triệt để là cắt đại tràng. Đôi khi còn phải cắt bỏ toàn bộ một hay nhiều tạng bị ung thư xâm lấn hay di căn. Trường hợp ung thư di căn không thể cắt triệt để thì cắt bỏ đoạn ruột có khối u hoặc làm hậu môn nhân tạo, để đề phòng các biến chứng.

Trong trường hợp tắc ruột, phương pháp điều trị là cắt đại tràng kèm khối u hoặc làm hậu môn nhân tạo hoặc nối tắt nếu không cắt u được. Nếu khối u đã vỡ gây viêm phúc mạc thì phải cắt đại tràng có u và đưa hai đầu ruột ra ngoài.

Ngoài điều trị bằng phẫu thuật, người ta còn sử dụng hóa trị và miễn dịch liệu pháp 5 fluoro-uracil thường được dùng để điều trị bổ túc sau mổ hoặc kết hợp với levamisol, hay acid folinic cho các trường hợp có di căn xâm lấn. Không dùng xạ trị cho ung thư đại tràng vì dễ gây viêm nhiễm xạ cho các tạng trong ổ bụng.

Tùy theo giai đoạn, tính chất, mức độ của bệnh và điều kiện sức khỏe của bệnh nhân mà bác sĩ sẽ cân nhắc sử dụng các biện pháp điều trị như phẫu thuật, xạ trị liệu, hóa trị liệu, điều trị bằng laser hoặc thậm chí chỉ là điều trị triệu chứng.

Lý tưởng nhất là phát hiện một cách hệ thống các polýp đại trực tràng trước khi xuất hiện ung thư cho tất cả những người lớn trên 50 tuổi nhất là ở người có nguy cơ cao: những người đã điều trị polýp hoặc ung thư đại trực tràng hoặc con cháu của họ, hoặc là những người bị ung thư vú, tử cung buồng trứng, tiền liệt tuyến, những người viêm đại tràng mạn. Tìm máu ẩn trong phân để sàng lọc những người sẽ soi đại tràng. Đồng thời giảm thiểu các yếu tố nguy cơ như giảm thức ăn nhiều mỡ động vật, giảm cholesterol máu, tăng cường thức ăn xơ.

Phòng bệnh như thế nào?

– Chế độ ăn uống

Một số bằng chứng khoa học chỉ ra rằng quá trình hình thành UTĐT có thể liên quan với chế độ ăn uống nhiều chất béo và calorie, ít thực phẩm chứa chất xơ, như ngũ cốc nguyên hạt, trái cây và rau củ.

– Tập thể dục

Nhiều nghiên cứu chứng minh lối sống ít vận động có thể gia tăng nguy cơ UTĐT. Ngược lại, những người tập thể dục thường xuyên có thể giảm nguy cơ phát bệnh.