Bệnh suy tim: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Suy tim là một hội chứng lâm sàng do máu bơm ra từ tim không đủ đáp ứng nhu cầu chuyển hóa hằng ngày của cơ thể.Trong bệnh suy tim, máu lưu thông qua tim cũng như khắp cơ thể với tốc độ chậm hơn, và áp lực trong tim gia tăng. Kết quả là tim không thể bơm máu để đáp ứng đủ nhu cầu ôxy và dưỡng chất của cơ thể.

Các ngăn trong tim sẽ đáp ứng bằng cách dãn rộng hoặc trở nên dầy và cứng để có thể chứa nhiều máu hơn và giúp bơm máu đi khắp cơ thể. Sư điều chỉnh này chỉ giúp máu lưu thông ổn định trong một thời gian, nhưng cuối cùng thì cơ tim cũng sẽ bị yếu đi và không còn khả năng bơm máu mạnh mẽ nữa. Kết quả là thận sẽ gia tăng việc giữ muối và dịch (nước) trong cơ thể. Nếu dịch tích tụ nhiều ở tay, chân, mắt cá, bàn chân, chân, phổi và các cơ quan khác thì toàn bộ cơ thể sẽ bị xung huyết. Thuật ngữ suy tim xung huyết là để chỉ tình trạng này.

Có mấy loại suy tim?

  • Rối loạn chức năng tâm thu (Suy tim tâm thu):Xảy ra khi tim không thể co bóp đủ mạnh, do đó không bơm được nhiều máu giàu ôxy cho cơ thể.
  • Rối loạn chức năng tâm trương (Suy tim tâm trương): Xảy ra khi tim co bóp bình thường nhưng không thể dãn rộng ra hoặc bị cứng, do đó tim không thể chứa đầy máu trước khi bơm máu đi khắp cơ thể.

Có một xét nghiệm gọi là phân suất tống máu (EF) để giúp xem xét khả năng co bóp của tim trong mỗi lần bơm, từ đó đánh giá đây là suy tim tâm thu hay suy tim tâm trương.

I. NGUYÊN NHÂN GAY BỆNH SUY TIM:

+Những bệnh tim bẩm sinh mắc từ khi còn nằm trong bụng mẹ, như thông liên nhĩ, thông liên thất, còn ống động mạch,v.v..

+Những bệnh van tim, do thấp khớp cấp để lại hậu quả. Hàng đầu là hẹp hai lá, rồi đến hở hai lá, hở van chủ, hẹp van chủ. Những bệnh này thường mắc từ tuổi đi học, 7-16 tuổi, nhưng phần nhiều lớn lên mới được chẩn đoán.

+ Những bệnh tim do thiếu máu cục bộ, như đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, một số loạn nhịp hoặc suy tim. Đây là bệnh của những người đứng tuổi 40-50 tuổi trở lên.

+ Những viêm cơ tim, do nhiễm trùng, những bệnh cơ tim nguyên nhân chưa rõ như bệnh cơ tim giãn, bệnh cơ tim phì đại, tuổi nào cũng có thể mắc.

+ Những bệnh màng ngoài tim như tràn dịch, viêm co thắt màng ngoài tim, phần lớn do nhiễm trùng các loại, nên không phụ thuộc vào tuổi.

+ Những rối loạn nhịp tim như loạn nhịp hoàn toàn (còn gọi là rung nhĩ), tim quá chậm hoặc quá nhanh, cũng có thể gây suy tim.

Ngoài những bệnh của quả tim kể trên, một số bệnh của mạch máu chủ yếu là của động mạch, cũng có thể đưa đến suy tim. Quan trọng nhất là tăng huyết áp; hẹp động mạch vành đã được coi là thiếu máu cục bộ cơ tim nói ở trên rồi. Hẹp động mạch thận cũng có thể dẫn đến suy tim vì nó cũng làm tăng huyết áp. Những bệnh của phế quản hoặc bệnh phổi mạn tính, lâu ngày có thể đưa đến suy tim, gọi là tim phổi mạn.

Cuối cùng một số bệnh toàn thân cũng có khi dẫn đến suy tim, điển hình là suy tim do tuyến giáp hoạt động thái quá (nhiễm độc giáp) hoặc kém quá (suy giáp), suy tim do thiếu máu bất kỳ nguyên nhân nào. Một số nhiễm độc hoặc suy dinh dưỡng, rối loạn điện giải cũng đôi khi gây ra suy tim.

II. TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH SUY TIM:

Khó thở là dấu hiệu quan trọng nhất.
Khó thở ở đây có nghĩa là người bệnh phải khó nhọc hơn bình thường mới thở được. Có người dùng những từ khác chỉ triệu chứng khó thở như¬ hụt hơi, ngắn hơi, thở gấp, tức thở. Người ngoài nhìn thấy cũng thấy bệnh nhân thở nhanh hơn, nông hơn và có vẻ khó nhọc hơn.
Khi suy tim mới bắt đầu, chỉ khi nào hoạt động nặng, khi nào gắng sức mới khó thở vì thế gọi là khó thở gắng sức. Tất nhiên người bình thường cũng thấy khó thở khi làm nặng. Nhưng người suy tim dễ bị khó thở hơn nhiều. Dần dần suy tim càng nặng bao nhiêu thì người bệnh càng khó thở nhiều, thậm chí có người chỉ bư¬ớc lên vài bậc thềm, hoặc tự tắm giặt kỳ cọ cũng khó thở. Cuối cùng, người bệnh khó thở cả khi ngồi nghỉ không làm gì cả.
Người bệnh nên chú ý nhận xét xem mình gắng sức đến mức nào thì bắt đầu khó thở, để đánh giá mức độ khó thở. Nên chú ý rằng “gắng sức”, ở đây chỉ tính đến những gắng sức về thể lực như lên dốc, mang vác nặng, chạy, nhảy, đi ngược gió… Ðó là những gắng sức tiêu thụ nhiều oxy. Các gắng sức về trí óc nh¬ư suy nghĩ tìm cách giải quyết một vấn đề gì, tập trung tư tưởng học tập, lo lắng vì kinh tế khó khăn, không đòi hỏi nhiều oxy nên cũng không gây khó thở và suy tim.
Căn cứ vào mức độ khó thở, xảy ra khi gắng sức ít hay nhiều, ngày nay các nhà chuyên khoa Việt Nam cũng như trên thế giới chia ra 4 độ suy tim:

• Suy tim độ I: người bệnh chưa thấy triệu chứng gì của suy tim dù lúc nghỉ ngơi hay khi gắng sức, sinh hoạt hàng ngày vẫn bình thường. Có thể coi là suy tim tiềm tàng.
• Suy tim độ II: sinh hoạt hàng ngày đã bị ảnh hưởng nhẹ, nghỉ ngơi thì không có triệu chứng gì, nhưng hoạt động thường nhật đã thấy khó thở. Có thể gọi là suy tim nhẹ.
• Suy tim độ III: sinh hoạt bị ảnh hưởng mức độ trung bình, nghĩa là nghỉ ngơi vẫn không có triệu chứng gì, nhưng chỉ hoạt động nhẹ hơn thường nhật đã thấy khó thở rồi. Ðây là suy tim trung bình.
• Suy tim độ IV: sinh hoạt bị ảnh hưởng nhiều, cả khi nghỉ ngơi cũng thấy khó thở, chỉ làm được những việc nhẹ. Suy tim ở đây được coi là nặng. Ở các độ trung bình và nặng (độ III và IV) khi thở có khi xuất hiện cả khi nằm buộc bệnh nhân phải ngồi suốt đêm. Cũng nên hiểu qua tại sao suy tim lại làm bệnh nhân khó thở? Vì “bơm” tim bị yếu, không hút được máu từ phổi về nên phổi bị ứ huyết. Do đó phổi mất tính đàn hồi trở nên cứng đờ, các cơ thở phải mất nhiều công sức. Như vậy chúng vừa phải làm việc nhiều hơn, mà lại chỉ nhận được ít oxy hơn do suy tim, nên chóng mệt hơn.
Triệu chứng khó thở này khá đặc trưng cho suy tim nhưng lại làm cho bệnh nhân và đôi khi cho cả thầy thuốc ít kinh nghiệm nữa, tưởng là bệnh phổi, và đi khám lao hoặc khám hen. Chúng tôi đã gặp nhiều bệnh nhân đã đi “vái tứ phương” nhất là phương Viện Lao và Bệnh viện Phổi, Bệnh viện Dị ứng, cuối cùng mới đến “phương” đúng là Bệnh viện tim mạch.
Các triệu chứng khác không quan trọng bằng:
Ho, cũng vì máu ứ trong phổi. Ho khan hoặc ho ra máu, thường xuất hiện khi gắng sức. Phù, do máu ứ ở các tĩnh mạch xa tim không được “hút” về tim. Gan to, cũng do máu ứ ở gan. Ðái ít vì thận không được nhận đủ máu do tim suy.
– Trống ngực vì tim suy hay đập nhanh.
– Mệt mỏi, yếu cơ vì máu không đến đủ nuôi các cơ.
Còn các triệu chứng không phải của suy tim: ngất, đau ngực, ngủ mê, bóng đè… Những triệu chứng này có thể là của bệnh tim, nhưng không phải là suy tim.
Những triệu chứng mô tả ở trên rất có giá trị làm ta nghĩ đến suy tim, nhưng để chẩn đoán suy tim thì chưa đủ. Bác sĩ còn phải khám thực thể, như quan sát vùng trước tim, nghe tim, nghe phổi, đo huyết áp… Sau đó, lại còn cần phải ghi điện tim (điện tâm đồ) và trong một số trường hợp còn phải chụp tim phổi (hình 2). Làm siêu âm tim, ghi điện tim gắng sức, xét nghiệm trong máu một số chất có liên quan đến tim như cholesterol, glucose… Những ca đặc biệt khó, phải dùng đến những thăm khán đặc biệt như chụp động mạch vành, chụp buồng tim, ghi điện đồ bó His… Với những khám nghiệm công phu, chuyên khoa cao như vậy, số trường hợp chẩn đoán không ra chỉ còn rất ít.

III. CHUẨN ĐOÁN BỆNH SUY TIM:

Bạn sẽ được hỏi nhiều câu hỏi về các triệu chứng và tiền sử bệnh tật. Bác sĩ cũng sẽ hỏi về các tình trạng bệnh lý có thể gây suy tim như bệnh động mạch vành, bệnh van tim, tiểu đường, cao huyết áp, đau ngực…và các thói quen như hút thuốc, uống rượu, chích ma túy và những thuốc đang uống.

Bạn sẽ được thăm khám lâm sàng. Bác sĩ sẽ nghe tim và thăm khám để phát hiện những bệnh lý khác có thể gây suy tim.
Sau cùng, bác sĩ sẽ cho tiến hành một số xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán cũng như giúp đánh giá nguyên nhân và độ nặng của suy tim. Các xét nghiệm bao gồm:

  • Xét nghiệm máu: Để đánh giá chức năng thận, chức năng tuyến giáp cũng như kiểm tra tình trạng thiếu máu và nồng độ cholesterol.
  • Xét nghiệm BNP: BNP là viết tắt của cụm từ tiếng Anh: B-type Natriuretic Peptide. Đây là một loại peptide được tiết ra từ tâm thất (hai ngăn phía dưới của tim) để đáp ứng với hiện tượng thay đổi áp lực trong tim xuất hiện khi tình trạng suy tim trở nên nặng hơn. Nồng độ BNP trong máu tăng khi tình trạng suy tim xấu đi và BNP giảm khi suy tim ổn định. Nồng độ BNP ở những bệnh nhân bị suy tim và cả những bệnh nhân có tình trạng suy tim ổn định thì cao hơn ở người có chức năng tim bình thường.
  • X quang ngực: nhằm để đánh giá khích thước của tim và giúp đánh giá có tình trạng ứ dịch ở phổi hay không.
  • Siêu âm tim:Giúp đánh giá các chuyển động của tim
  • Phân suất tống máu: Là xét nghiệm giúp đánh giá khả năng co bóp của cơ tim với mỗi nhát bóp giúp xác định xem có rối loạn chức năng tâm thu hay suy tim với chức năng tâm thất trái còn được bảo tồn hay không.
  • Điện tâm đồ (ECG hay EKG): Còn được gọi là điện tim, là một xét nghiệm cho kết quả là những đường biểu diễn phản ánh hoạt động của các xung điện lan truyền dọc theo tim.

IV. ĐIỀU TRỊ BỆNH SUY TIM:

Ngày nay có nhiều chọn lựa cho việc điều trị suy tim so với trước đây. Kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng thuốc và lối sống là những bước khởi đầu. Khi bệnh đã tiến triển thì bác sĩ có thể chọn lựa một số phương pháp điều trị.

Mục tiêu điều trị suy tim đầu tiên là làm giảm khả năng tiến triển của bệnh (Do đó làm giảm nguy cơ tử vong và nhu cầu phải nhập viện), làm giảm các triệu chứng của suy tim và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Các giai đoạn suy tim?

Vào năm 2001, Hiệp hội Tim Hoa Kỳ (AHA) và Trường Đại học Tim mạch Hoa Kỳ (ACC) đã đưa ra tiểu chuẩn về các giai đoạn của suy tim

Giai đoạn Mô tả giai đoạn Điều trị
Giai đoạn A Người có nguy cơcao vềkhởi phát suy tim, bao gồm: 

  • Cao huyết áp
  • Tiểu đường
  • Bệnh mạch vành
  • Hội chứng chuyển hóa
  • Tiền sử sử dụng thuốc gây độc cho tim
  • Tiền sử nghiện rượu
  • Tiền sử sốt thấp
  • Tiền sử gia đình có mắc bệnh cơ tim

 

  • Tập thểdục đều đặn
  • Bỏ hút thuốc
  • Điều trị cao huyết áp
  • Điều trị rối loạn lipid máu
  • Bỏ rượu và ngưng sử dụng thuốc gây độc cho tim
  • Thuốc ức chế men chuyển angiotensin hoặc chẹn thụ thể angiotensin II có thể được sử dụng nếu bạn có bệnh lý động mạch vành, tiểu đường, cao huyết áp hay các bệnh lý tim mạch khác.
  • Thuốc chẹn thụ thể beta có thể được sử dụng nếu bạn bị nhồi máu cơ tim trước đó

 

Giai đoạn B Người được chẩn đoán là rối loạn chức năng tâm thu thất trái nhưng không cótriệu chứng suy tim (tiền suy tim), bao gồm những người có: 

  • Nhồi máu cơ tim trước đó
  • Bệnh lý van tim
  • Bệnh lý cơ tim

Chẩn đoán được thiết lập khi siêu âm tim phát hiện phân suất tống máu dưới 40%.

 

  • Các phương pháp điều trịbên trên cho giai đoạn A
  • Tất cả bệnh nhân nên uống thuốc nhóm ức chế men chuyển angiotensin hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotensin II
  • Thuốc chẹn thụ thể beta và thuốc ức chế aldosterone nên được sử dụng cho những bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim
  • Chọn lựa phẩu thuật sửa chữa động mạch vành và sửa chữa hoặc thay thế van tim có thể được cân nhắc.

 

Giai đoạn C Bệnh nhân bịsuy tim tâm thu đã được biết và có thêm các triệu chứng ởhiện tại hoặc trước đây, bao gồm: 

  • Thở ngắn (thở dốc)
  • Mệt
  • Giảm khả năng tập thể dục

 

  • Các phương pháp điều trịbên trên cho giai đoạn A
  • Tất cả bệnh nhân nên uống thuốc nhóm ức chế men chuyển angiotensin và thuốc chẹn thụ thể angiotensin II
  • Các bệnh nhân người Mỹ gốc Phi có thể được kê toa phối hợp hydralazine/nitrate nếu các triệu chứng dai dẳng.
  • Thuốc lợi tiểu (lợi niệu) và thuốc trợ tim digoxin có thể được sử dụng nếu triệu chứng dai dẳng
  • Thuốc ức chế aldosterone có thể được sử dụng khi các triệu chứng vẫn còn nặng nề với các biện pháp trị liệu khác.
  • Tiết chế muối (Chế độ ăn giảm muối)
  • Theo dõi cân nặng
  • Ngưng sử dụng những thuốc có khả năng làm tình trạng bệnh nặng hơn
  • Nếu thích hợp, có thể dùng biện pháp đặt máy tạo nhịp 2 buồng (2 buồng thất)
  • Có thể sử dụng máy khử rung (ICD)

 

Giai đoạn D Bệnh nhân bịsuy tim tâm thu và kèm các triệu chứng đang diễn tiến nặng cần phải săn sóc tăng cường
  • Các phương pháp điều trịcho giai đoạn A, B và C
  • Bệnh nhân được xem xét để được chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp như: ghép tim, thiết bị hổ trợ tâm thất, phẩu thuật, truyền tĩnh mạch liên tục thuốc tăng cường sức co bóp của cơ tim và chăm sóc cuối đời.

 

Làm gì để ngăn ngừa bệnh suy tim nặng lên?

  • Giữ cho huyết áp thấp: Trong bệnh suy tim, sự phóng thích các hormon làm cho mạch máu bị co thắt. Tim sẽ phải tăng cường co bóp để có thể bơm máu đi qua các động mạch bị co thắt. Nếu huyết áp được giữ thấp thì tim có thể bơm máu hiệu quả mà không cần gắng sức.
  • Theo dõi các triệu chứng: Kiểm tra sự thay đổi về dịch trong cơ thể bằng cách cân hoặc kiểm tra xem có bị phù không. Nếu phát hiện tăng cân nhanh (tăng 2kg trong 1 tuần) hoặc bị phù ngày càng nhiều thì phải đến bác sĩ để được thăm khám. Ngoài ra nếu có triệu chứng mới xuất hiện hoặc các triệu chứng hiện có nặng lên thì cũng cần được bác sĩ thăm khám.
  • Duy trì sự cân bằng về dịch: Bác sĩ có thể yêu cầu bạn theo dõi lượng nước được đưa vào cơ thể từ đường ăn, uống và cả việc tiểu tiện. Bởi vì càng nhiều dịch trong mạch máu thì tim càng phải gắng sức để bơm đi một lượng thể tích nhiều hơn bình thường. Nên hạn chế lượng nước nhập vào cơ thể dưới 2 lít mỗi ngày để giúp tim giảm tải và có thể ngăn ngừa các triệu chứng tái phát.
  • Hạn chế ăn muối (Natri): Natri được tìm thấy tự nhiên trong nhiều loại thực phẩm và natri có trong muối ăn được cho thêm vào để nêm nếm thức ăn và giúp thức ăn được bảo quản được lâu hơn. Nếu bạn tiết chế natri trong chế độ ăn thì sẽ giúp cơ thể giữ ít dịch, giảm phù và thở dễ dàng hơn.
  • Theo dõi cân nặng và giảm cân khi cần thiết: Điều này giúp phát hiện khi có tình trạng tích tụ dịch trong cơ thể.
  • Uống thuốc đã được bác sĩ kê toa: Thuốc được sử dụng nhằm cải thiện khả năng bơm máu của tim, làm giảm áp lực lên tim và giảm quá trình tiến triển của suy tim cũng như ngăn ngừa hiện tương ứ dịch. Nhiều thuốc điều trị suy tim được sử dụng để làm giảm sự phóng thích của những hormon có hại. Những thuốc này làm dãn mạch và do đó làm giảm huyết áp.
  • Hẹn tái khám đều đặn với bác sĩ: Trong quá trình tái khám, bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng sức khỏe của bạn và xem diễn tiến của suy tim có xấu lên hay không. Thông bào đến bác sĩ những vấn đề về tình trạng suy tim của bạn.

Làm thế nào để ngăn chặn tổn thương tim nặng lên?

  • Bỏ hút thuốc
  • Cố gắng đạt được trọng lượng lý tưởng và duy trì nó
  • Kiểm soát tình trạng cao huyết áp, nồng độ cholesterol trong máu và bệnh tiểu đường
  • Tập thể dục đều đặn
  • Không uống rượu
  • Phẩu thuật hoặc các thủ thuật khác để điều trị suy tim

Các thuốc nào nên tránh?

Có một số loại thuốc nên tránh sử dụng khi bị suy tim, bao gồm:

  • Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) để điều trị giảm đau, nhức, hạ sốt.
  • Thuốc chống loạn nhịp tim
  • Thuốc chẹn kênh canxi (nếu bạn bị suy tim tâm thu)
  • Thuốc antacids (giảm tiết dịch vị ở dạ dày) có chứa Natri
  • Thuốc giảm xung huyết như Sudafed

Nếu bạn đang sử dụng các loại thuốc này thì cần thông báo đến bác sĩ.

Một lưu ý quan trọng là cần phải biết tên các thuốc bạn đang uống, mục đích sử dụng của chúng, ngày uống mấy lần, uống vào thời điểm nào. Liệt kê một danh sách các thuốc bạn đang uống và mang đến cho bác sĩ mỗi lần tái khám. Không bao giờ ngưng thuốc mà không hỏi ý kiến của bác sĩ cho dù các triệu chứng của bạn có thuyên giảm, thậm chí là khỏi hẳn vì các thuốc này giúp cho tim bơm máu hiệu quả hơn.

Các phương pháp phẩu thuật để điều trị suy tim là gì?

Phẩu thuật nhằm mục đích làm ngừng sự tổn thương của tim và cải thiện chức năng của tim. Các phương pháp bao gồm:

  • Thiết bị cấy vào bên trong để trợ giúp hoạt động của thất trái (Implantable left ventricular assist device – LVAD): Thiết bị này giống như “chiếc cầu nối ghép” cho bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác và bị nhập viện với tình trạng suy tim tâm thu nặng. Thiết bị này giúp tim bơm máu đi khắp cơ thể. Nó cho phép bệnh nhân đi lại, thậm chí có thể về nhà để chờ ghép tim. Biện pháp này đôi khi cũng được sử dụng như phương pháp điều trị cuối cùng đối với các bệnh nhân không thích hợp để ghép tim.
  • Phẩu thuật bắc cầu động mạch vành (CABG):Phẩu thuật phổ biến nhất đối với suy tim là phẩu thuật bắc cầu. Bác sĩ sẽ xem xét tình trạng suy tim của bạn có phải là do bệnh lý ở động mạch vành hay không, và tình trạng tắc nghẽn của động mạch vành có thể được nối tắt hay không. Mặc dù phẩu thuật trên bệnh nhân suy tim thì có nhiều nguy cơ, nhưng một số biện pháp tiên tiến thực hiện trước, trong và sau khi phẩu thuật có thể làm giảm đi các nguy cơ và giúp cải thiện kết quả.
  • Phẩu thuật van tim: Bệnh lý van tim có thể được điều trị bằng cả hai phương pháp phẩu thuật và không phẩu thuật (tạo hình van tim bằng bóng qua da: Balloon valvuloplasty)
  • Phẩu thuật loại bỏ ổ nhồi máu: (Phương pháp Dor): Khi nhồi máu cơ tim xãy ra ở tâm thất trái thì sẹo được tạo thành. Vùng sẹo này mỏng và phồng ra mỗi khi tim co bóp. Vùng phập phồng này được gọi là “túi phình”. Khi suy tim xuất hiện sau nhồi máu cơ tim thì bác sĩ phẩu thuật có thể chọn lựa kết hợp việc phẩu thuật bắc cầu và/hoặc sửa chữa van tim kèm với việc lấy đi vùng mô cơ tim bị chết (bị nhồi máu) hoặc túi phình. Phẩu thuật loại bỏ ổ nhồi máu giúp tâm thất trái trở về hình dạng bình thường hơn và cải thiện chức năng của nó.
  • Ghép tim: Được xem xét khi tim bị suy nặng đến mức không còn đáp ứng với tất cả các phương pháp điều trị khác, nhưng sức khỏe của bệnh nhân tương đối tốt.

Tiên lượng ở bệnh nhân suy tim như thế nào?

Nếu được chăm sóc đúng cách, tình trạng suy tim có thể không ngăn cản bạn thực hiện những điều mình ưa thích. Tiên lượng của bạn tùy thuộc vào chức năng cơ tim còn tốt đến đâu, triệu chứng của suy tim nặng nhẹ ra sao, sự đáp ứng và tuân thủ của bạn đối với chế độ điều trị tốt như thế nào.

V. PHÒNG NGỪA BỆNH SUY TIM:

Muốn đề phòng suy tim, cần phải ngăn chặn những bệnh gây suy tim đã.

1. Ðề phòng các bệnh tim bẩm sinh, với trình độ khoa học hiện nay, vẫn còn rất khó. Người ta chỉ mới đề ra được một số biện pháp như khi có thai, nhất là trong 3 tháng đầu, phải tránh một số tác nhân có thể gây ra dị tật ở thai nhi như thuốc lá, rượu, một số virus như cúm, sởi… Cũng nên nhấn mạnh rằng nhiều thuốc có thể gây hại cho bào thai, từ các thuốc an thần như bacbituric, phenothiazin, đến các thuốc chữa ‘khớp như indomethacin, chữa lao như isoniazid, có một số vitamim như vitamin A, vitamin D và cả một số kháng sinh nữa.
2. Ðề phòng những bệnh van tim, cần làm sạch môi trường, nhà ở phải thoáng đãng, khô ráo, ít người ở chung. Khi trẻ bị viêm họng, cần đến bác sĩ xem có cần cho penicillin không? Sau đợt thấp khớp đầu tiên, dù có biến chứng tim hay không, cũng cần theo lời khuyên của bác sĩ về việc tiêm penicillin chậm mỗi tháng một lần cho đến khi trưởng thành hoặc lâu hơn. Và khi đã rõ bệnh van tim rồi, thì phải xem việc “can thiệp” như trong van, sửa van, thay van… đây là những kỹ thuật các thành phố lớn đã có thể làm được.
3. Những bệnh cơ tim, bệnh màng ngoài tim, bệnh phổi mạn tính, hoặc nhiễm độc giáp, suy giáp, thiếu máu…đều phải được điều trị đến nơi đến chốn mới ngăn chặn được khỏi tiến triển đến suy tim.
Nhưng nói chung, bàn đến phòng bệnh tim mạch là người ta bàn nhiều lá nhất đến các biện pháp đề phòng tăng huyết áp và các bệnh tim thiếu máu cục bộ cụ thể là đề phòng vữa xơ động mạch. Hiện nay sang thiên niên kỷ thứ ba, xơ vữa động mạch vẫn là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thế giới.
Thống kê năm 1990 về tử vong cho thấy bệnh tim thiếu máu cục bộ đứng số 1 và tai biến mạch não số 2, cả hai đều do xơ vữa động mách; trong khi lao phổi đứng thứ 7, ung thư đường thở thứ 10 trong số 30 nhóm bệnh được khảo sát.
Cũng thống kê trên dự kiến năm 2020; các bệnh nhiễm trùng sẽ giảm đi nhiều và các bệnh ung thư tăng lên nhiều, nhưng tim thiếu máu cục bộ và tai biến mạch não mà người ta gọi chung là bệnh tim mạch vẫn cứ giữ nguyên vị trí số 1 và số 2 như 30 năm trước? Cho nên đề phòng suy tim, điều chính yếu là đề phòng xơ vữa động mạch, kẻ gây ra cả bệnh tim thiếu máu cục bộ lẫn tai biến mạch não. Theo lời khuyên của Tổ chức y tế thế giới, đề phòng vữa xơ động mạch ở các nước đang phát triển như Việt Nam chẳng hạn, nên tập trung vào 4 nội dung giáo dục sức khỏe sau:

1. Cải tiến cách ăn uống: bớt mỡ, bớt muối, bớt calo.

2. Chống hút thuốc lá.

3. Phòng và chữa tăng huyết áp.

4. Tăng hoạt động thể lực và chứng béo.

Lời khuyên cho người bị bệnh tim
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm về cách sống của người có bệnh tim, dù đã suy tim hay ch¬ưa.
Về hoạt động

Nên tránh những công việc đòi hỏi nhiều công sức như gồng gánh, mang vác nặng, cuốc đất, lên gác cao… Những việc quá nặng như vậy bắt tim phải làm việc quá nhiều, quá tải và sẽ chóng bị suy hơn. Vì vậy, có khi người mắc bệnh tim phải đổi nghề, mặc dù tim chưa suy. Nếu cần làm, nên làm thong thả, và khi thấm mệt nên ngừng ngay. Chỉ trong suy tim cấp mới phải nằm nghỉ trên gi¬ường.
Tuy nhiên, nghỉ nhiều quá cũng không lợi cho tim và cho các cơ khác. Phải đi lại, làm việc nhẹ nhàng trong nhà hoặc ở cơ quan, tập thể dục nhẹ, giải trí điều độ. Như vậy có lợi cả cho tim mạch và cho thần kinh. Xin nhắc những phụ nữ có bệnh tim: dù tim chưa suy, cũng chỉ nên đẻ một lần, vì mỗi khi có thai hoặc đẻ, tim phải làm việc nhiều hơn và dễ suy hơn. Nên đẻ ở bệnh viện, có mặt bác sĩ theo dõi để xử trí nhanh chóng nếu có sự cố.
Người suy tim độ I và độ II có thể đi máy bay được. Suy tim nặng hơn, độ III và độ IV bay dài quá ngồi lâu có thể viêm tĩnh mạch nên chú ý cử động chi dưới. Làm việc trí óc, trái lại, không có hại cho tim và người bị bệnh tim có thể lao động trí óc được. Chỉ nên làm điều độ, có giờ giấc, xen kẽ với nghỉ ngơi hợp lý.
Còn một điểm hơi tế nhị, nhưng cũng cần nói, là hoạt động tình dục. Hoạt động tình dục thật ra chỉ tốn ít năng lượng và không làm tim quá tải đáng kể, cho nên “sinh hoạt” vợ chồng không cần ‘kiêng”. Tất nhiên phải có điều độ, tránh quá sức.
Các vaccin nên dùng như ở người bình thường. Không nên vì bệnh tim mà miễn tiêm chủng, thí dụ vaccin chống viêm gan B.
Trong sinh hoạt cũng như trong công việc, nên giữ bình tĩnh, lạc quan. Mọi xúc cảm mạnh, như cáu giận, buồn quá, vùi quá đều làm tim đập nhanh nghĩa là làm tim bị mệt.
Về ăn uống

Ngoài những điều đã nói ở trên cần nhấn mạnh thêm:
a. Hạn chế ăn muối cần kỹ hơn. Bình thường người có bệnh tim ăn nửa muối, tức là 4 gam muối mỗi ngày, là được nhưng nếu chớm thấy có hiện tượng giữ nước như phù mặt buổi sáng phù mắt cá chân buổi chiều hoặc khi phải đứng lâu, bụng hơi to ra, cân lên quá nhanh, người thấy nặng nề, thì lo phải hạn chế hơn nữa, chỉ được 3 gam muối mỗi ngày. Ðối với phụ nữ, những ngày sắp có vẻ kinh nguyệt hay bị ứ nước, gây phù khó thở, hết kỳ kinh nguyệt lại trở lại bình thường. Những ngày ứ nước như¬ vậy nên ăn nhạt hơn nữa.
b. Nước uống cũng không được nhiều, không nên quá 1,5 lít mỗi ngày là vì uống nước nhiều sẽ tăng gánh nặng cho tim, tim đã có bệnh lại bị quá tải, sẽ chóng bị suy hơn. Ðặc biệt nước nên uống từng lượng nhỏ, uống một hơi liền 1-2 cốc có thể suy đột ngột. Không nên theo một số người khuyên uống liền 1 -2 lít nước buổi sáng, rất nguy hiểm! Trường hợp ra mồ hôi, hoặc ỉa chảy, mất nước, có thể uống nhiều hơn, nhưng cũng phải uống từng ngụm nhỏ. Truyền dịch cũng cần cân nhắc, cần lắm mới nên truyền vì tăng gánh nặng cho tim.
c. Chú ý những thức ăn có nhiều kali, như rau xanh, trái cây, nước luộc rau có thể dùng thay nước uống trong ngày. Cơ thể đủ ka li, tim làm việc tốt hơn.
d. Ăn đúng mức, đừng để bị béo phì. Cơ thể quá nặng, tim phục vụ khó khăn hơn. Người hơi gầy một chút, có thể tránh được suy tim. Tất nhiên cũng không nên gây quá. Những thức ăn có nhiều cao như đường, gạo, mở, các quả ngọt nhiều… đều phải hạn chế. Nên cân luôn, nếu lên cân quá, phải ăn rút đi nhưng vẫn phải đủ chất bổ theo nhu cầu của cơ thể. Còn nếu lên cân quá nhanh, 1-2 ngày mà tăng quá 2 kg thì tức là ứ nước phải tăng liều thuốc lợi tiểu theo hướng dẫn của bác sĩ.
Nhiều bệnh khi xảy ra ở người có bệnh tim mạch, có thể đẩy nhanh đến suy tim.
Rõ nhất là các bệnh gây thiếu máu (chảy máu trĩ, rong kinh, chảy máu dạ dày), rồi đến các bệnh tuyến giáp (cường giáp, còn gọi là bệnh bướu cổ lồi mắt; suy giáp..), các bệnh nhiễm trùng (thương hàn, bạch hầu, cúm). Phải đề phòng những bệnh đó, và nếu có phải điều trị cho tốt.
Một số thuốc có thể gây suy tim ở những người có bệnh tim mạch, khi dùng phải thận trọng, theo đơn và có sự theo dõi của thầy thuốc. Ðó là một số thuốc chẹn calci (verapamil, diltiazen…); nhiều thuốc chống loạn nhịp (quinidin, và nhất là những thuốc không biết rõ thì không nên dùng, dù là thuốc Tây hay thuốc Ðông. Những thuốc làm tim đập nhanh quá cũng cần thận trọng khi dùng như cafein, ephedrin…
Theo đúng chỉ dẫn của thầy thuốc về sinh hoạt và thuốc men. Các thuốc dùng trong bệnh tim, nhất là thuốc chữa suy tim, đều tương đối độc và khó đùng. Sai một ly đi một dặm, tuyệt đối không được nghe ai, kể cả bệnh nhân cũ “có kinh nghiệm”, người nhà, đơn thuốc kèm lọ thuốc, cán bộ y tế, và cả các bác sĩ khác nữa.