Tràn khí màng phổi: Nguyên nhân, biểu hiện, cách phòng và điều trị

Khi không khí tràn vào ổ màng phổi thì lá thành và lá tạng sẽ tách ra, tạo nên một khoảng chứa khi, gọi là hiện tượng tràn khi màng phổi.

Hiện tượng tràn khí màng phổi thường là bệnh lý, nhưng cũng có trường hợp bơm không khí vào ổ màng phổi để điều trị: phương pháp ép phổi.

Khi có thể tràn vàoổ màng phổi, xâm chiếm toàn bộ ổ màng phổi gọi là tràn khí màng phổi toàn bộ, nếu chỉ xâm chiếm một phần gọi là tràn khí màng phổi cục bộ (loại này thể hiện rất âm thầm).

Lâm sàng và điện quang xoay quanh hai yếu tố: thủng màng phổi và sự có mặt của không khí trong ổ màng phổi.

I. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH:

–  Do lao: phần lớn (60%) tràn khí màng phổi tự phát là do lao. Nó có thể là bệnh cảnh mở đầu một quá trình lao, nhưng thường là biến chứng của một bệnh lao phổi tiến triển.

– Không rõ nguyên nhân: thường xảy ra ở người trẻ, khoẻ mạnh. Tràn khí toàn bộ một bên ổ màng phổi không tiến triển thành một tràn dịch, hay tái phát, người ta cho rằng có thể ;là do kén hơi ở phổi vỡ ra.

–  Các bệnh khác ở phổi, không phải lao: Áp xe phổi vỡ ra ở màng phổi ho gà…
– Bệnh đường hô hấp, COPD ,Cystic fibrosis, Status asthmaticus, Bệnh phổi mô kẽ, Sarcoidosis, Lymphangioleiomyomatosis, Tuberous sclerosis, Rheumatoid disease
Viêm phổi Staphylococcal, Sarcoma,  Ung thưphổi, Viêm phổi, Wegener’s granulomatosis, Hội chứng Marfan, Hội chứng Ehlers-Danlos.

-Tràn khí màng phổi (pneumothorax) là sự tràn ngập khí trong khoang màn phổi gây xẹp một phần hay toàn bộ nhu mô phổi.Tràn khí màng phổi có thể tự phát hoặc do chấn thương lồng ngực.
-Tràn khí màng phổi tự phát (spontaneous pneumothorax) là tình trạng tràn khí màng phổi xãy ra do không chấn thương lồng ngực.Gồm 2 thể lâm sàng sau :
+ Tràn phổi màng phổi tự phát nguyên phát (primary spontaneous pneumothorax) là tình trạng tràn khí màng phổi xãy ra mà không tình thấy nguyên nhân bệnh lý ở phổi .
+ Tràn phổi màng phổi tự phát thứ phát (secondary spontaneous pneumothorax) là tình trạng tràn khí màng phổi xãy ra do nguyên nhân bệnh lý ở phổi .
– Tràn khí màng phổi do chấn thương (traumatic pneumothorax) là tình trạng tràn khí màng phổi xãy ra do chấn thương lồng ngực trong đó bao gồm các chấn thương lồng ngực gây ra do thủ thuật, phẩu thuật .

II. CÁC LOẠI TRÀN KHÍ MÀNG PHỔI:

. Phân lại theo nguyên nhân:
– Tràn khí màng phổi tự phát:là tràn khí màng phổi không phải do chấn thương, hoặc vết thương ngực gây ra.
Tràn khí màng phổi tự phát được chia làm 2 nhóm:
+ Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát: tràn khí màng phổi xuất hiện ở những người trước đó khoẻ mạnh, hay gặp ở nam giới, trẻ tuổi (tỷ lệ nam/nữ = 3/1), thường do vỡ các bóng khí ở đỉnh phổi. Cơ chế hình thành các bóng khí còn chưa rõ: có thể do bẩm sinh hoặc do viêm tiểu phế quản tận. Thường gặp ở người cao, gầy vì  ở cơ địa này áp lực đỉnh phổi thấp hơn dễ gây vỡ các bóng khí. Khoảng 30% số trường hợp tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát bị tái phát.
+ Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát: tràn khí màng phổi xuất hiện ở những người bị bệnh phổi trước đó, có biến chứng tràn khí màng phổi, tiên lượng xấu hơn. Thường gặp ở người trên 30 tuổi. Rất nhiều bệnh phổi có thể gây  biến chứng tràn khí màng phổi như:
. Do nhiễm khuẩn: do lao phổi có hang hoặc không hang, do viêm phổi tụ cầu vàng, một số vi khuẩn gram (-).
. Do bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: vỡ các bóng khí thũng dưới màng phổi.
. Hen phế quản: có thể kèm theo tràn khí trung thất.
. Các nguyên nhân khác gây tắc nghẽn phế quản: trong ung thư khí phế quản, ngoài ra có thể  gặp do một số bệnh: xơ hoá kén, xơ phổi kẽ lan toả, bệnh bụi phổi, AIDS.
– Tràn khí màng phổi do chấn thương: có thể do chấn thương, vết thương, hoặc do các thủ thuật: chọc và sinh thiết phổi – màng phổi, hồi sức tim phổi, đặt catheter tĩnh mạch dưới đòn…
Dựa vào đo áp lực khoang màng phổi: bằng máy đo áp lực (máy Kuss hoặc bơm tiêm) chia tràn khí màng phổi ra làm 3 thể:
– Tràn khí màng phổi kín: chỗ rách của màng phổi đã được bịt lại, đo áp lực  khoang màng phổi âm tính, tiên lượng tốt. Nếu tràn khí màng phổi ít (dưới 10% một bên phổi) khí có thể tự hấp thu.
– Tràn khí màng phổi hở: chỗ rách của màng phổi vẫn tồn tại, áp lực khoang màng phổi = 0 (tương đương áp lực khí quyển).
– Tràn khí màng phổi van: chỗ rách vẫn tồn tại, tạo van 1 chiều, đo áp lực khoang màng phổi dương tính. Ngực bên tràn khí căng phồng, đẩy trung thất sang bên đối diện, dễ suy hô hấp cấp và truỵ tim mạch, cần phải cấp cứu khẩn cấp.

III. CÁC BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:

Chúng tôi lấy hội chứng tràn khí màng phổi toàn bộ làm điển hình.

Triệu trứng chức năng:

1. Hiện tượng đau chói ở ngực: người bệnh đột nhiên đau chói ở ngực đau như xé phổi, có thể gây sốc, tái xanh người, vã mồ hôi, mạch đập nhanh, huyết áp hạ.

2. Hiện tượng khó thở: xảy ra ngay sau người bệnh đau chói ở ngực khó thở rất nhiều, người bệnh thường ở trong bệnh cảnh sốc.

Những triệu chứng sốc này cũng biến dần đi cùng các triệu chứng chức năng kể trên, đau giảm đi, khu trú ở vùng xương bả hay dưới núm vú.

Còn đối với tràn khí gây ra để điều trị thì triệu chứng chức năng hầu như không đáng kể vì nó không phải do thủng màng phổi và không khí đưa từ ngoài vào chậm với một số lượng đã quy định sẵn, vì vậy không có hội chứng sốc, đau không đáng kể, người bệnh nghỉ ngơi thì không khó thở nữa.

Triệu chứng thực thể:

Trong hội chứng tràn khí toàn bộ, triệu chứng thực thể rất phong phú.

1. Nhìn: nửa ngực bị tràn khí thì lồng ngực bất động, khoảng liên sườn giãn ra, ngực bên đó cũng phình ra.

2. Sờ: Rung thanh mất.

3. Gõ: tiếng vang trống, một dấu hiệu điển hìonh của tràn khí màng phổi.

4. Nghe: triệu chứng chủ yếu là mất tiếng rì rào phế nang.

Ba triệu chứng: Rung thanh mất; Rì rào phế nang mất; Tiếng gõ vang trống.

Hợp thành tam chứng Galliard.

Khi nghe, đôi khi ta còn có thể thấy được một tiếng thổi vò. Tiếng vang kim khí, tiếng vang vò của tiếng nói và của tiếng ho. Những triệu chứng này không có thường xuyên và xảy ra muộn so với ba triệu chứng chính kể trên.

Ngoài ra còn có một số triệu chứng khác: do sự thay đổi vị trí của các cơ quan. Mất tiếng gõ đục vùng gan trong trường hợp tràn khí màng phổi phải, mất tiếng đục vùng tim vì tim bị đẩy sang phải, trong trường hợp tràn khí màng phổi trái.

Triệu trứng X- Quang:

–  Qúa sáng bên có bệnh .

–  Khoảng liên sườn giãn, chiều các xương sườn bé ngang ra.

–  Phổi bị co lại thành một cục xẹp xuống sát rốn phổi.

–  Cơ hoành không di động và bị đẩy xuống, trung thất bị đẩy sang bên lành

Triệu trứng áp lực kế:

Cần phải biết để phân biệt hội chứng tràn khí màng phổi. Ta thường đo áp lực không khí trong ổ màng phổi bằng máy Kuss, có 3 trường hợp xảy ra:

1. Áp lực tràn khí màng phổi bằng áp lực khí trời: đó là tràn khí mà phổi mở, vẫn còn lỗ thông giữa màng phổi với không khí bên ngoài.

2. Áp lực tràn khí màng phổi thấp hơn áp lực khí trời: đó là tràn khí màng phổi đóng chỗ thủng đã được gắn lại, không khí không vào thêm được nữa. Loại này tiên lượng tốt.

3. Áp lực tràn khí màng phổi cao hơn áp lực khí trời: không khí vào ổ màng phổi được, nhưng không ra được nên thể tích không khí càng ngày càng tăng, làmm cho người bệnh càng khó thở, đó là tràn khí màng phổi có van, loại này rất nặng, thường thì người bệnh chết ngay vì ngạt thở và sốc.

Nếu không có máy Kuss ta có thể dùng ống bơm tiêm:

–  Nếu pittông (Piston) đứng yên: Tràn khí màng phổi mở.

–  Nếu pittông (Piston) bị hút vào: tràn khí màng phổi đóng.

–  Nếu pittông (Piston): tràn khí màng phổi có van.

Nếu hội chứng tràn khí màng phổi thường rõ ràng, để chẩn đoán bằng lâm sàng cũng như chẩn đoán bằng Xquang, thì trái lại, Hội chứng tràn khí màng phổi cục bộ rất kín đáo, ít khi chẩn đoán được bằng lâm sàng vì:

–  Về chức năng: người bệnh không khó thở chỉ hơi đau ngực.

–  Về thực thể: hội chứng tràn khí khu trú ở một vùng nhỏ cho nên rất khó phát hiện.

Chẩn đoán tràn khí màng phổi cục bộ thường là một phát hiện của Xquang: thấy một hình hơi ở ria phổi giữa nhu mô phổi và lồng ngực. Hình ảnh đó cần được phân biệt với một hang phổi bằng cách nhận xét góc của hình hơi đó: góc của tràn khí cục bộ thì nhọn, góc cuảa hang phổi thì tù, ngoài ra khi người bệnh ho, tràn khí cục bộ không nháy, trái lại nếu là hang phổi thì hình đó sẽ nháy.

IV. PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ:

Hút khí màng phổi:
– Tràn khí màng phổi kín: có chỉ định hút hết khí bằng bơm tiêm hoặc máy Kuss. Nếu tràn khí màng phổi mức độ nhiều, thì tránh hút quá nhiều và quá nhanh.
– Tràn khí màng phổi hở: dẫn lưu khí bằng Catheter cần đặt thông dẫn lưu (gian sườn II) hút liên tục qua máy hút, với áp lực thấp, kết hợp với thở oxy vừa bổ sung oxy vừa tăng khả năng hấp thu khí.
– Tràn khí màng phổi thể van: khi cấp cứu cần đặt ngay  kim dẫn lưu 1 chiều (kim Petrov) ở gian sườn II đường giữa đòn, sau đó đặt thông dẫn lưu khí và hút liên tục bằng máy hút.
– Dự phòng tái phát bằng bơm Tetraxyclin, bột Talc, gây dính màng phổi, nhất là ở những bệnh nhân tràn khí màng phổi thứ phát, tái phát.
Điều trị nguyên nhân:
– Do lao: dùng phác đồ chống lao (2SRZH/6HE).
– Do vi khuẩn: dùng kháng sinh. Tuỳ theo nguyên nhân mà điều trị thích hợp.
Điều trị triệu chứng:
– Chống sốc và truỵ tim mạch, nâng huyết áp, trợ tim, thở oxy 1lít/ 1phút liên tục.
– Giảm đau: aspirin và các thuốc giảm đau.
– An thần, giảm ho.
Phẫu thuật: thắt buộc các bóng khí, khâu lỗ thủng.

Chỉ định khi:
– Dẫn lưu sau 1 tuần không kết quả.
– Tràn khí-tràn máu do đứt dây chằng đỉnh phổi.
– Tràn khí màng phổi tái phát sau khi đã gây dính màng phổi.

Tổng hợp