Nồng độ cholesterol trong máu và sức khoẻ của bạn

Cholesterol là một chất béo có trong máu và tất cả các loại tế bào của cơ thể. Cholesterol là một phần quan trọng của cơ thể bởi vì nó được sử dụng để tạo nên màng tế bào, một số nội tiết tố (hormones) và phục vụ nhiều chức năng quan trọng khác của cơ thể. Nhưng nếu có quá nhiều cholesterol trong máu thì sẽ là nguy cơ lớn đối với bệnh mạch vành (dẫn đến cơn đau tim cấp) và đột qụy. Tăng cholesterol máu (Hypercholesterolemia) là một thuật ngữ y học về nồng độ của cholesterol máu ở mức cao.

Bạn có biết rằng bản chất của cholesterol không phải là xấu. Thật sự, cholesterol là một trong nhiều chất được cơ thể chúng ta tạo ra và sử dụng để giữ gìn sức khoẻ của cơ thể . Một số cholesterol được tạo ra bởi cơ thể, một số được cung cấp bởi thức ăn.

Có hai loại cholesterol: “tốt” và “xấu”. Điều quan trọng là phải biết về sự khác biệt và nồng độ của cholesterol “tốt” và “xấu” này trong máu của bạn. Có quá nhiều một loại cholesterol hoặc không đủ một loại cholesterol khác đều có thể đưa bạn đến nguy cơ bệnh mạch vành, cơn đau tim cấp.

Hai nguồn cung cấp cholesterol?

Cholesterol đến từ hai nguồn: Từ cơ thể của bạn và từ thức ăn mà bạn ăn vào. Gan và các tế bào khác của cơ thể tạo nên khoảng 75% cholesterol máu, 25% còn lại do thức ăn cung cấp.

LDL cholesterol là một cholesterol “xấu” (cholesterol “bad”). Khi có quá nhiều loại này lưu thông trong máu, nó có thể gây tắc động mạch, làm tăng nguy cơ bệnh mạch vành và đột qụy. LDL cholesterol được sản xuất tự nhiên bởi cơ thể. Sự sản xuất quá nhiều cholesterol có thể do di truyền từ cha, mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ. Ăn chế độ ăn nhiều mỡ, cholesterol cũng làm cho cholesterol của bạn tăng cao. Nếu gia đình bạn có người có cholesterol máu cao thì sự thay đổi cách sống không đủ để giúp LDL cholesterol của bạn thấp được. Mỗi người có sự khác nhau, vì vậy bạn trao đổi với bác sĩ để có kế hoạch điều trị theo tốt nhất cho bạn.

Hiểu thế nào về nồng độ cholesterol máu của bạn?

Hiệp hội Tim Hoa Kỳ (The American Heart Association) đã thực hiện Chương trình Giáo dục Cholesterol Quốc gia cho mọi người để phát hiện cholesterol máu cao, theo đó, mọi người 20 tuổi trở lên cần thiết lập một hồ sơ về theo dõi xét nghiệm “lipid” mỗi 5 năm. Xét nghiệm này gồm các chỉ số cholesterol toàn phần (total cholesterol), LDL (xấu) cholesterol, HDL (tốt) cholesterol và triglycerides, Các xét nghiệm được thực hiện sau khi nhịn ăn 9-12 giờ. Nếu bạn không nhịn ăn khi thực hiện xét nghiệm thì bác sĩ sẽ không thể thực hiện chính xác được hồ sơ lipid được và yêu cần bạn phải làm xét nghiệm lại.

LDL và HDL cholesterol: Loại nào xấu và loại nào tốt?

Cholesterol không thể hoà tan trong máu được. Nó phải được vận chuyến bằng một chất vận chuyển gọi là lipoprotein. LDL cholesterol (Low-density lipoprotein) hay còn gọi là một loại cholesterol “xấu” (cholesterol “bad”. HDL cholesterol (High-density lipoprotein) hay còn gọi là một cholesterol “tốt” (cholestero “good”. Cả hai loại cholesterol này cùng với triglycerides và Lp(a) cholesterol tạo nên cholesterol toàn phần. Tất cả được xác định bằng cách xét nghiệm máu.

LDL “xấu” cholesterol (LDL “Bad” Cholesterol)

Khi có quá nhiều LDL (xấu) cholesterol lưu thông trong máu, LDL cholesterol cùng với một số chất béo khác từ từ hình thành nên những mảng dày bên trong thành mạch gây nên xơ cứng có thể làm hẹp lòng động mạch, giảm sự đàn hồi của thành mạch máu và được gọi là vữa xơ động mạch (atherosclerose). Nếu một cục máu được hình thành và bị tắc nơi động mạch bị hẹp này sẽ gây nên cơn đau tim cấp hay đột qụy.

HDL “tốt” cholesterol (HDL “good” Cholesterol)

Khoảng 1/4 đến 1/3 cholesterol máu được vận chuyển bởi một lipoprotein mật độ cao ( high-density lipoprotein – HDL). HDL cholesterol là một cholesterol “tốt” bởi vì nồng độ cao của HDL hình như bảo bệ chống lại cơn đau tim cấp. Nồng độ thấp của HDL (thấp hơn 40 mg/dL) sẽ làm tăng nguy cơ bệnh tim. Các chuyên gia y khoa nghĩ rằng HDL sẽ vận chuyển cholesterol ra khỏi mạch máu và trở về gan. Một vài chuyên gia tin rằng HDL sẽ di chuyển cholesterol dư thừa khỏi mảng động mạch một cách từ từ.

Triglycerides

Triglycerides là một dạng chất béo góp phần tạo hình cơ thể. Tăng triglycerides có thể do thừa cân hoặc béo phì, ít vận động, hút thuốc lá, sử dụng rượu bia quá mức, một chế độ ăn giàu tinh bột (bằng hoặc hơn 60% calories của khẩu phần ăn). Người có triglycerides cao thì thường có nồng độ cholesterol toàn phần cao, trong đó có nồng độ LDL (xấu) cholesterol cao và HDL (tốt) cholesterol thấp. Nhiều bệnh nhân tim mạch và tiểu đường cũng có nồng độ triglycerides cao.

Lp(a) cholesterol

Lp(a) là một LDL (xấu) cholesterol khác. Nồng độ Lp(a) cao là một yếu tố nguy cơ quan trọng về sự sớm tích tụ chất béo ở động mạch. Sự hiểu biết về Lp(a) chưa được đầy đủ, nhưng nó có thể tác dụng qua lại với các chất ở thành động mạch và góp phần làm tích tụ chất béo ở đó.

Hậu quả cholesterol cao là gì?

Cholesterol cao là một trong những yếu tố chính góp phần gây nên bệnh mạch vành, cơn đau tim cấp và đột qụy. Khi cholesterol máu cuả bạn tăng lên thì nguy cơ bệnh mạch vành tăng theo. Nếu bạn có những yếu tố khác như huyết áp cao, tiểu đường cùng với cholesterol cao thì nguy cơ bệnh mạch vành càng cao.

Phụ nữ và cholesterol

Nội tiết tố nữ có xu hướng tăng HDL cholesterol. Như một nguyên tắc, phụ nữ có HDL (tốt) cholesterol cao hơn nam giới. Sự sản xuất estrogen cao nhất là trong thời kỳ sinh đẻ. Điều này giúp giải thích tại sao các phụ nữ tiền mãn kinh thường được bảo vệ khỏi bệnh tim.

Phụ nữ cũng có xu hướng có nồng độ triglycerides cao hơn. Nồng độ triglycerides bình thường từ 50 đến 250 mg/dL phụ thuộc vào tuổi và giới nam hoặc nữ. Khi lớn tuổi, thừa cân hoặc cả hai, triglycerides và cholesterol của họ có xu hướng tăng lên.

Điều trị nội tiết tố sau mãn kinh (Postmenopausal hormone therapy – PHT) có thể mang lại lợi ích cho phụ nữ khỏi bị loãng xương hoặc các bệnh lý khác có liên quan đến mãn kinh. Tuy nhiên, Hiệp hội Tim Hoa Kỳ (American Heart Association) khuyến cáo rằng PHT không được sử dụng để phòng ngừa bệnh tim mạch. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng các phụ nữ đã có cơn đau tim cấp trước đó không ích lợi gì khi sử dụng PHT. Các thử nghiệm lâm sàng hiện nay đã chứng minh PHT không làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch và đột qụy ở những phụ nữ sau mãn kinh. Các phụ nữ hoặc gia đình họ có tiền sử ung thư vú hoặc các ung thư liên quan nội tiết khác cũng không nên sử dụng PHT.

Hiệp hội Tim Hoa Kỳ khuyến cáo dùng thuốc điều trị hạ LDL (xấu) cholesterol [LDL (bad) cholesterol-lowering drug therapy] cho hầu hết phụ nữ có bệnh tim. Điều trị thuốc nên phối hợp với chế độ ăn ít chất béo bảo hoà (saturated fat), chất béo trans (trans fat), cholesterol và muối natri, ăn nhiều rau quả, ngủ cốc, thức ăn nhiều chất xơ Nên ăn cá hai lần/tuần. Ngoài ra, phụ nữ nên kiểm soát cân nặng, vận động và không hút thuốc.

Trẻ em và cholesterol

Các chứng cớ chứng minh rằng quá trình vữa xơ mạch máu bắt đầu từ khi còn niên thiếu và diễn tiến một cách chậm rãi cho đến khi trưởng thành và thường dẫn tới bệnh mạch vành, nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Hoa Kỳ.

Mặc dù đã có sự thành công đáng kể trong việc làm giảm tử vong của bệnh mạch vành trong hai thập niên qua, hiện nay, bệnh này vẫn còn tử vong trên 450.000 người/năm tại Hoa Kỳ. Trên 43% bệnh nhân bệnh mạch vành xuất viện là tuổi dưới 65. Nhiều người trong số bệnh nhân này có con có các yếu tố nguy cơ cần được quan tâm.

Chứng cứ chứng minh rằng:
· Vữa xơ động mạch hoặc tiền triệu bắt đầu ở người trẻ.
· Đánh giá nồng độ cholesterol sớm có thể đóng vai trò trong sự phát triển vữa xơ động mạch người lớn.
· Chế độ ăn và di truyền có ảnh hưởng đến nồng độ cholesterol máu và nguy cơ bệnh mạch vành.
· Hạ thấp nồng độ cholesterol ở tuổi thanh thiếu niên là có lợi.
· Hút thuốc lá nên được ngăn cản.
· Tập thể dục thường xuyên cần được khuyến khích.
· Cao huyết áp cần được chẩn đoán và điều trị.
· Tránh thừa cân nên tránh, giảm cân.
· Bệnh tiểu đường cần được chẩn đoán và điều trị.

Nồng độ cholesterol ở trẻ em từ 2 đến 19 tuổi
· Cholesterol toàn phần (mg/dL)
o Bình thường (Acceptanle): thấp hơn 170
o Giới hạn (Borderline): 170 – 199
o Cao (High): bằng hoặc cao hơn 200

· LDL cholesterol (mg/dL)
o Bình thường(Acceptable) thấp hơn 110
o Giới hạn (Borderline): 110–129
o Cao (High): bằng hoặc cao hơn 130

Các hướng dẫn “Chương trình giáo dục cholesterol Quốc gia” (National Cholesterol Education Program) của Hiệp hội Tim Hoa Kỳ

1. Sự lựa chọn của tôi về chế độ ăn và vận động là trách nhiệm đối với nồng độ cholesterol của tôi ?
Chế độ ăn và vận động góp phần quyết định phần lớn nồng độ cholesterol máu cũng như cholesterol do cơ thể tạo ra. Số lượng LDL (xấu) cholesterol trong máu được kiểm soát tại hai vị trí quan trọng là gan và ruột non. Gan sản xuất cholesterol (để tạo dịch tiêu hoá hoặc mật) và cũng để thu hồi cholesterol từ máu. Sự hấp thu cholesterol ở ruột từ thức ăn và mật. Đối với một số người, gan sản xuất cholesterol nhiều hơn hấp thu từ ruột. Nếu đây là trường hợp của bạn thì bác sĩ của bạn sẽ kê đơn thuốc điều trị cho bạn. Tuy nhiên, một chế độ ăn tốt cho tim (a heart-healthy diet) và thường xuyên vận động là quan trọng cho mọi người để

2. Sử dụng margarine thay thế cho bơ sẽ giúp cho cholesterol của tôi thấp hơn ?
Cả margarine và bơ đều có hàm lượng cao về chất béo, vì thế sử dụng cả hai loại này ở mức vừa phải. Với một chế độ ăn, yếu tố lớn nhất ảnh hưởng đến cholesterol máu là có bao nhiêu chất béo bảo hoà và chất béo trans (saturated fat and trans fat) (chất béo trans là một chất béo “xấu” có nhiều trong các loại bánh ngọt,, chocolat, kẹo, bánh biscuit, cookies, cracker, bánh donuts, muffin, bánh trung thu, bánh croissant, thức ăn chiên bán trong tiệm như khoai Tây chiên (French fries) và gà chiên, và trong các loại margarine cứng) . Hạn chế thức ăn có hàm lượng chất béo bảo hoà và chất béo trans sẽ giúp cho LDL (xấu) cholesterol của bạn thấp hơn. Hầu hết dầu thực vật, margarin dạng lỏng và mềm chứa ít chất béo bảo hoà và chất béo trans hơn các loại bánh kẹo, bơ, mứt và thích hợp với chế độ ăn tốt cho tim. Khi chọn mua margarin, tốt nhất nên chọn loại trên nhãn hiệu có ghi “chất béo trans = 0 gam (0 gam trans fat)

Cần nhớ rằng, một sự thay đổi từ việc dùng bơ qua dùng margarin mềm (soft margarine) đã là một bước tốt đẹp nhưng chưa đủ để giảm cholesterol của bạn về mức chấp nhận được. Một chế độ ăn tốt và thay đổi lối sống hoặc sử dụng thuốc điều trị là cần thiết, bãn cần trao đổi với bác sĩ.

3. Những người gầy ốm không phải lo lắng về cholesterol cao ?
Bất kỳ loại hình dạng cơ thể nào đều có thể có cholesterol máu cao. Những người thừa cân thường có cholesterol cao nhiều hơn cả, nhưng những người gầy ốm cũng nên kiểm ra thường xuyên cholesterol của mình. Thường những người không đạt được cân nặng một cách dễ dàng thì thường ít để ý họ ăn bao nhiêu chất béo bảo hoà và chất béo trans. Không ai có thể “ăn bất kỳ thứ gì họ muốn” để duy trì sức khoẻ của mình. Bạn có thường xuyên kiểm tra cholesterol đối chiếu với cân nặng, hoạt động và chế độ ăn của bạn.

4. Bác sĩ không nói bất kỳ điều gì về cholestrol của tôi, vì thế tôi không phải lo lắng?
Sức khoẻ của bạn là trách nhiệm của bạn. Hỏi bác sĩ nếu cholesterol của bạn cần được kiểm tra. Yêu cầu bác sĩ giải thích tất cả các chỉ số bao gồm nồng độ HDL (tốt) cholesterol, LDL (xấu) cholesterol và triglycerides. Nếu chỉ số của bạn là cao hoặc ở biên độ giới hạn thì trao đổi với bác sĩ. Tùy theo dữ liệu của hồ sơ sức khoẻ và nồng độ cholesterol, bác sĩ sẽ tư vấn về thay đổi chế độ ăn, lối sống hoặc sử dụng thuốc cho bạn. Thực hiện tất cả những chỉ dẫn của bác sĩ và thực hiện lại xét ngghiệm theo yêu cầu của bác sĩ.

5. Vì nhãn dinh dưỡng trên các loại thức ăn yêu thích của tôi nói không có cholesterol, tôi có chắc rằng đó là sự lựa chọn tốt.
Nhãn dinh dưỡng trên thức ăn rất hửu dụng khi bạn lựa chọn thức ăn tốt cho mình, nhưng bạn cần biết những gì bạn muốn tìm hiểu. Nhiều thức ăn ghi “cholesterol thấp” lại chứa nồng độ chất béo bảo hoà và chất béo trans cao, cả hai chất này đóng góp vào làm cho cholesterol máu cao. Ngay cả các thức ăn đã khai báo “chất béo thấp” cũng chứa chất béo cao hơn đăng ký. Quan sát kỹ số lượng chất béo bảo hoà và chất béo trans, cholesterol và tổng số calories tại trên nhãn sản phẫm. Cơ quan quản lý thuốc và Thực phẫm Hoa Kỳ hiện nay yêu cầu các thức ăn phải được ghi chất béo trans (trans fat) trên nhãn sản phẫm. Chất béo trans được thấy với số lượng khác nhau ở hầu hết các sản phẫm được làm với dầu ăn hydro hoá (hydrogenated oil) như thức ăn nướng, bánh ngọt, bánh qui, bánh kẹp, shortening, một số margarin, bơ …

6. Vì tôi bắt đầu uống thuốc điều trị cholesterol cao, tôi không phải lo lắng về những gì tôi ăn phải không?
Điều trị bằng thuốc thường được thực hiện đối với những người đã thay đổi chế độ ăn, tập thể dục vả giảm cân nhưng nồng độ cholesterol vẫn còn cao hoặc những người có nguy cơ cao về tim mạch và đột qụy. Kết hợp thay đổi chế độ ăn, cách sống và sử dụng thuốc theo toa của bác sĩ là cách tốt nhất giúp ngăn ngừa bệnh tim. Bạn nên duy trì chế độ ăn tốt cho tim mạch vả tập thể dục vừa ít nhất 30 phút trong 5 ngày hoặc hơn mỗi tuần. Một điều rất quan trọng là bạn cần uống thuốc chính xác theo hướng dẫn của bác sĩ.

7. Vừa rồi tôi có đọc một tin cho rằng trứng là không quá xấu đối với cholesterol của bạn, vì vậy tôi nghĩ rằng tôi có thể ăn trở lại 2 quả trứng vào bữa điểm tâm mỗi buổi sáng được không?
Một quả trứng chứa khoảng 231 mg cholesterol. Theo khuyến cáo, giới hạn của cholesterol hằng ngày là không quá 300 mg đối với những người có LDL (xấu) cholesterol bình thường. Một quả có thể thích hợp với chế độ ăn tốt cho tim mạch nếu không có nguồn cung cấp nào khác như thịt, bơ sữa.

8. Tôi là phụ nữ, vì vậy tôi không phải lo lắng về cholesterol cao phải không? Nó chỉ là vấn đề của nam giới?

Phụ nữ tiền mãn kinh thường được bảo vệ khỏi bị LDL “xấu” cholesterol, bởi vì nội tiết tố nữ estrogen có khuynh hướng làm tăng nồng độ HDL “tốt” cholesterol. Nhưng nồng độ các loại cholesterol có xu hướng tăng theo tuổi và khi đó phụ nữ tiền mãn kinh với chế độ ăn tốt, thường xuyên vận động thì vẫn chưa đủ để giữ cho cholesterol không tăng lên. Nếu bạn gần mãn kinh thì điều quan trọng là bạn phải kiểm tra cholesterol và trao đổi ý kiến với bác sĩ. Bạn vẫn có thể có cholesterol cao ngay cả khi bạn thực hiện chế độ ăn tốt, duy trì vận động, kiểm tra cân nặng và không hút thuốc lá.

9. Bạn không cần kiểm tra cholesterol của bạn cho đến khi bạn đến tuổi trung niên?
Mọi người nên bắt đầu kiểm tra cholesterol ở tuổi 20, thực sự nên bắt đầu kiểm tra cholesterol ở tuổi càng sớm càng tốt. Ngay cả trẻ em, đặc biệt đối với trẻ có người trong gia đình mắc bệnh tim mạch vẫn có nồng độ cholesterol cao và tiên lượng những trẻ em này có nguy cơ phát triển bệnh tim mạch lớn hơn khi đạt đến tuổi trưởng thành. Thiếu tập thể dục thường xuyên, không kiểm soát chế độ ăn và các yếu tố di truyền có thể ảnh hưởng nhiều đến nồng độ cholesterol của trẻ em. Bậc phụ huynh hoặc những người chăm sóc có thể giúp trẻ một lối sống lành mạnh bằng cách phục vụ thức ăn chứa chất béo bảo hoà, chất béo trans và cholesterol thấp, khuyến khích tập thể dục ít nhất 60 phút mỗi ngày, tránh hút thuốc lá.

Quan điểm phòng ngừa và điều trị

Quá nhiều cholesterol trong máu có thể dẫn đến bệnh tim mạch – kẻ giết người số 1 của Mỹ. Tin tốt lành là bạn có thể hạ thấp nồng độ cholesterol của bạn và giảm nguy cơ bệnh tim và đột qụy. Bạn cần thực hiện nghiêm túc các tư vấn về lối sống, chế độ ăn, thuốc điều trị của bác sĩ, như vậy, bạn có thể quản lý được cholesterol của bạn

· Thay đổi lối sống
o Ăn theo chế độ ăn tốt cho tim mạch
o Thường xuyên tập thể dục.
o Tránh hút thuốc lá.
· Thuốc hạ cholesterol
Có nhiều loại thuốc khác nhau làm hạ nồng độ cholesterol máu. Bác sĩ sẽ chỉ định thuốc tốt nhất hoặc phối hợp các loại thuốc cho bạn. Phải nói cho bác sĩ biết hiện bạn đang sử dụng các loại thuốc gì. Điều quan trọng là bạn không được tự ý dùng thuốc mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ.

– Nhóm Statins (thuốc ức chế HMG CoA reductase)
Nhóm thuốc này có tác dụng ở gan để ngăn ngừa sự thành lập cholesterol. Statins có hiệu quả nhất là làm hạ LDL (xấu) cholesterol cũng như với triglycerides và làm tăng HDL (tốt) cholesterol.
Các loại thuốc nhóm statin hiện đang sử dụng tai Mỹ gồm:
Atorvastatin (Lipitor®)
Fluvastatin (Lescol®)
Lovastatin (Mevacor®, Altoprev™)
Pravastatin (Pravachol®)
Rosuvastatin Calcium (Crestor®)
Simvastatin (Zocor®)
Statins cũng có trong một số thuốc phối hợp như
· Advicor® (lovastatin + niacin)
· Caduet® (atorvastatin + amlodipine)
· Vytorin™ (simvastatin + ezetimibe).

– Thuốc ức chế hấp thu cholesterol chọn lọc (Selective cholesterol absorption inhibitors)
Đây là nhóm thuốc mới làm giảm cholesterol bằng cách ngăn chặn sự hấp thu cholesterol từ ruột non. Thuốc ức chế hấp thu cholesterol chọn lọc hiệu quả nhật là làm giảm LDL (xấu) cholesterol đồng thời cũng làm giảm triglycerides và làm tăng HDL (tốt) cholesterol.
Thuốc đầu tiên của nhóm này là ezetimibe (Zetia®), thuốc này được chấp thuận cho phép điều trị cholesterol cao và các bất thường về lipid do di truyền vào năm 2002.

– Thuốc nhóm resins
Thuốc nhóm này tác động trên ruột non bằng cách làm tăng sự loại bỏ cholesterol. Cơ thể sử dụng cholesterol để sản xuất mật, một acid đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hoá. Các thuốc nhóm này sẽ kết hợp với mật làm cho mật không thực hiện vai trò tiêu hóa của nó. Gan của bạn sẽ đáp ứng lại bằng cách tạo ra mật nhiều hơn. Và như vậy, gan sẽ huy động nhiều hơn cholesterol từ máu nghĩa là cholesterol máu sẽ giảm xuống.

Các thuốc nhóm resins hiện đang sử dụng tại Mỹ, gồm:
· Cholestyramine (Questran®, Questran® Light, Prevalite®, Locholest®, Locholest® Light)
· Colestipol (Colestid®)
· Colesevelam Hcl (WelChol®)

– Nhóm Fibrates (dẫn xuất của fibric acid – fibric acid derivatives)
Nhóm thuốc fibrates có tác dụng tốt làm hạ triglycerides và trong một số trường hợp làm tăng nồng độ HDL (tốt) cholesterol. Những thuốc này không hiệu quả trong việc làm giảm LDL (xấu) cholesterol. Đó là lý do tại sao thường sử dụng nhóm thuốc này cho các người có nồng độ triglycerides cao và HDL cholesterol thấp. Fibrates có thể phổi hợp điều trị với nhóm statins.

Thuốc nhóm fibrates hiện đang sử dụng tại Mỹ, gồm:
· Gemfibrozil (Lopid®)
· Fenofibrate (Antara®, Lofibra®, Tricor®, and Triglide™)
· Clofibrate (Atromid-S)
– Nhóm Niacin (nicotinic acid)
Nhóm thuốc này có tác dụng tại gan làm ảnh hưởng đến sản xuất chất béo. Niacin được kê toa điều trị để làm giảm triglycerides, LDL “xấu” cholesterol, làm tăng HDL “tốt”cholesterol.

BS Hồ Văn Sanh – Biên dịch theo tài liệu của Hiệp hội Tim Hoa Kỳ (American Heart Association). WebsiteMedline Plus – Service of U.S National Library of Medicine and The National Institutes of Health.

Từ khóa: